Một  anh bạn người Sài Gòn đã sống nhiều năm ở miền Bắc, có một nhận xét rất  thú vị rằng người Hà Nội rất bảo thủ trong cách ăn, mặc dầu sau năm  1954, đã từng sống chung với người miền Nam tập kết hơn 20 năm, vậy mà  họ vẫn không học cách ăn của người Nam như ăn rắn, thịt chuột và các  loài côn trùng bò sát... 
Nhưng  không riêng gì người Hà Nội, mà con người nói chung đều mang tính bảo  thủ trong ăn uống, đó là thói quen khó sửa nhất. Không nói đến tính di  truyền để hình thành khẩu vị của cả dân tộc, mà chỉ nói đến thói quen ăn  uống mà ta đã hấp thu từ thời niên thiếu, khi lớn lên, dù có đi nhiều  nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa ẩm thực khác, nhưng vẫn không quên  được những khẩu vị đã được hình thành trong khung cảnh gia đình từ tấm  bé. Nhất là khi đến tuổi già, những khẩu vị thời nhỏ hình như lại trỗi  dậy, khiến nhiều người thường nhớ tới những món ăn mà người mẹ đã nấu  cho ăn từ thuở ấu thơ, dù sau này có được người vợ khéo tay, vẫn không  thể thay được những món ăn do tay mẹ làm.
Sự  thật khi ta ăn một món ăn của thời niên thiếu, là ta đang tìm lại một  kỷ niệm, chứ sự thật làm gì có cái thước đo mùi vị của món ăn ngày nay  xem có gì khác với món ăn thời xa xưa? Và kỷ niệm đó chúng ta không bao  giờ tìm lại được, vì một món ăn khi thưởng thức phải được nằm trong  khung cảnh gia đình xã hội của thời đó. Làm sao phục hồi được không khí  xưa? Cho nên nhiều người Việt ra sống ở nước ngoài, lấy vợ đầm, ăn cơm  Tây, phải sống theo một tập tục ăn uống hoàn toàn khác lạ trong nhiều  năm, khi đã về già lại cứ muốn trở về quê hương để được ăn lại những món  ăn quen thuộc trước khi xa xứ thời trẻ, một bát canh rau với quả cà,  một đĩa cá kho…
Quay  lại với người Hà Nội, ta thấy thói quen ăn uống của người Hà thành hình  như vẫn được duy trì bền vững cho dù họ đi đến tận nơi chân trời góc  biển ở đâu đi nữa. Sài Gòn xưa thiếu gì những nhà hàng sang trọng, ngon  lành, nhất là những tiệm ăn của người Hoa. Nhưng tại sao có một nhà hàng  bé nhỏ mang dáng vẻ bình dân như quán cơm Bà Cả Đọi (cái tên lại càng  dân dã nữa) lại vẫn được các nhân vật tên tuổi trong giới nghệ thuật và  thượng lưu lui tới. Ở đấy người ta chỉ nấu những món ăn thuần túy của  miền Bắc như canh mồng tơi, canh rau ngót, cà dầm tương, cải muối dưa,  đậu phụ om… Tất nhiên, thực khách phần lớn là những người Hà Nội và  người Bắc di cư nói chung. Để đến nay, quán cơm Bà Cả Đọi đã trở thành  một loại hình nhà hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, có nghĩa là cơm kiểu  Bắc.
Phải  thừa nhận rằng trong nhiều thập kỷ qua, thói quen ăn uống của người Hà  Nội đã có nhiều thay đổi, nhưng một số truyền thống cố hữu vẫn được duy  trì khá bền vững. Trong bữa cơm hàng ngày của người Hà Nội, ta thấy  ngoài các món rau thì thịt lợn vẫn là chủ đạo. Hãy xem các món ngon của  người Hà Nội được truyền từ lâu đời như giò, chả, nem, mọc… không thể  thiếu trong những bữa cỗ bàn, phần lớn đều được chế biến từ thịt lợn.  Các thứ bánh của Hà Nội và của miền Bắc nói chung như bánh giò, bánh  dợm, bánh chưng, bánh khúc, bánh gai, và kể cả thứ bánh ăn chơi như bánh  gối… đều làm bằng nhân thịt lợn. Thảng hoặc cũng có giò bò, nhưng đấy  là biến thể của giò lợn, chứ khi dọn cỗ bàn, giò lụa vẫn là món chính.  Trong gia đình, đĩa thịt lợn rim hay ruốc thịt là món ăn thường xuyên  dành cho trẻ nhỏ, vì người ta coi đấy là món ăn lành. 
Nói  đến cá, phần lớn người Hà Nội chỉ thích ăn cá nước ngọt, ít khi ăn cá  biển. Có phải vì Hà Nội ở xa biển không? Nhưng rõ ràng là trong thực đơn  của người Hà Nội, chỉ có mấy loại cá biển như cá thu, cá chim là còn  được mua về, chứ các thứ cá khác ít khi thấy xuất hiện. Người miền Bắc  có câu “chim, thu, nụ, đé” để chỉ bốn loại cá ngon nhất, nhưng hai thứ  cá sau thì chắc có nhiều người chưa hề thấy mặt. Hỏi một bà nội trợ  người Hà Nội gốc về các thứ cá thì chắc rằng không mấy ai có thể trả lời  rành rẽ như một bà nội trợ Huế hay Quy Nhơn. Còn nhớ trong thời kỳ  chiến tranh, các thứ thịt cá đều phải mua theo tem phiếu, thỉnh thoảng  cửa hàng thực phẩm bán cá biển ướp đá đông lạnh, nhà nào cũng phải mua  vì nếu không ăn thì cũng không có thứ thay thế. Lúc đó những người Hà  Nội dù không quen vẫn cứ phải xài thứ cá tanh tưởi đó, mà toàn là những  loại cá tạp như cá mối, cá đồng tiền, xương nhiều, nạc ít, lại không còn  tươi. Thời đó đã qua đi, ngày nay xem lại, có còn ai ăn các thứ cá đó  nữa không? Tuyệt nhiên là không.
Gần  đây ở Hà Nội mọc lên một số hiệu ăn gọi là “quán Huế”, không những  người gốc Huế đến ăn mà cả người Hà Nội cũng tìm đến thưởng thức. Đối  với người Hà Nội thì ăn Huế kiểu gì cũng được, miễn là ngon và giá cả  phải chăng. Nhưng với người gốc Huế thì khác. Lúc đầu người ta còn náo  nức rủ nhau đến để tìm lại hương vị của quê hương, nhưng rồi cứ nguội  dần. Nói chung ai cũng nhận xét: quán Huế mà chả ra Huế chi cả! Thật  vậy, những quán Huế ở Hà Nội còn lâu mới giống được một quán ăn bình dân  của xứ Huế hiện nay. Từ cọng rau thơm, đến quả ớt xanh, từ chén nước  mắm đến tô nước lèo, tất cả đều khác, chả trách người Huế “bất mãn” là  phải. Nhưng ở Hà Nội mà cứ làm đúng như ở Huế, hỏi có thể thu hút được  khách ăn người Bắc không? Những vị cay, mùi ruốc, vị mặn đặc trưng của  Huế, liệu có hợp với người Bắc không? Đứng về phía người ăn (gốc Huế)  thì muốn làm cho đúng kiểu Huế xịn. Nhưng về phía nhà hàng, họ cần phục  vụ cho số đông là người Bắc, hay cho một số ít người Huế sinh sống ở Hà  Nội? Về điểm này ta thấy Hà Nội kém xa thành phố Hồ Chí Minh, vì ở đây  ta có thể tìm thấy đủ các món ăn khắp ba miền với đúng mùi vị của chúng.
Hà  Nội là trung tâm của đất nước, ngay dưới thời Pháp thuộc, đã từng là  nơi quy tụ tinh hoa của cả nước. Trí thức văn nghệ sĩ khắp nơi, muốn lập  nghiệp đều tìm về Hà Nội. Có biết bao nhà văn, nhà thơ, nhà báo, được  coi là người Hà Nội, nhưng họ đâu phải sinh ra và lớn lên ở đây. Ấy vậy  mà tinh hoa ẩm thực của cả nước lại không tìm Hà Nội làm nơi tụ hội.  Người các nơi khác đến đây, buộc phải thưởng thức những món ăn của Hà  Nội, chứ tìm đâu thấy bún bò Huế, mì Quảng của Quảng Nam, hủ tiếu của  Sài Gòn chưa nói đến hủ tiếu Nam Vang! Bánh xèo Nam bộ thì  gần đây mới có, nhưng chỉ là những quán bình dân bán dọc vỉa hè, không  có những cửa hàng đàng hoàng và bánh khoái Huế lại càng không có. Nhớ  lại trong những năm chiến tranh, khi người miền Nam tập kết có mặt rất  đông ở Hà Nội, mỗi khi nghe thấy ở Câu lạc bộ Thống Nhất có bán chè hay  bún theo kiểu miền Nam thì người ta đổ xô đến để mong được tìm lại đôi  chút hương vị quê hương. Vậy mà không bao giờ xuất hiện một nhà hàng nào  chịu chế biến các món ăn miền Nam ở Hà Nội! Thậm chí đến tháng 4/1999,  Hội đồng hương Thừa Thiên - Huế tổ chức một tuần lễ Văn hóa Huế tại Hà  Nội, trong đó không thể không có một góc ẩm thực. Nếu Hà Nội thường  xuyên có những quán ăn Huế thì đã không có cảnh những người Huế từ các  tỉnh đem theo cả con cháu lặn lội về tận đây xếp hàng để được thưởng  thức một chút hương vị của bánh bèo, bánh nậm… mà họ hằng ao ước. Hiện  tượng này được giải thích như thế nào? Có phải do tính bảo thủ trong ăn  uống của người Hà thành không? Cái đó để bạn đọc suy nghĩ thêm.
Quay  sang các nước châu Âu, lật một cuốn sách của Pháp dạy cách làm các món  ăn trên thế giới, khi nói đến món nọ món kia của châu Phi hay châu Á,  người viết luôn nói rằng ở Paris chúng ta chỉ có thể tìm được những gia  vị thay thế như thế này thế nọ, chứ không thể có được đầy đủ những gia  vị như ở nước quê hương của các món ăn đó. Vì vậy chỉ có thể nấu một món  ăn gọi là của Việt Nam, gọi là của Ấn Độ, hay của Bắc Phi, chứ không  thể tạo lại hoàn toàn món ăn của xứ sở đó trên đất Pháp. Ví dụ nấu món couscous của người Bắc Phi, nhiều đầu bếp Pháp phải dùng bột nghệ thay cho safran,  là một thứ gia vị màu vàng phổ biến ở các nước Ả Rập, nhưng ở Pháp thì  giá rất đắt và hiếm. Còn ở Việt Nam ta, bột cari chủ yếu được chế biến  từ bột nghệ chứ lấy đâu ra safran,  cho nên ăn cari ở nước ta khác hẳn cari Ấn Độ hay các nước hồi giáo  khác ở Đông Nam Á. Như vậy, dù không có chủ ý, người nấu tự nhiên phải  thay đổi một vài khẩu vị khi đem món ăn đó ra nước ngoài. Một thanh niên  Việt Nam có nhiều cửa hàng ăn ở Cộng hòa Liên bang Đức đã từng nói với  tôi rằng: bên đó cơm Việt Nam rất được khách hàng ưa chuộng, nhưng khi  làm cơm rang, phải chiều theo khẩu vị của một bộ phận người nhập cư rất  đông là Thổ Nhĩ Kỳ, cho nên phải rắc bột nghệ (chính ra là dùng safran) để có màu vàng như cơm của người Hồi giáo.
Do  vậy nói đến giữ gìn bản sắc ăn uống của dân tộc, là nói đến việc giữ  gìn những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật ẩm thực dân tộc, chứ không  phải là phục hồi lại nguyên vẹn các món ăn xưa, theo đúng khẩu vị xưa.  Vì ngay trong một vùng, việc ăn uống cũng biến đổi theo thời gian, chứ  chưa nói đưa ra nước khác. Trong Hà Nội băm mươi sáu phố phường (1943), nhà văn Thạch Lam đã từng viết: “Chắc  nhiều bạn đọc còn nhớ cái thứ bánh đậu Hải Dương, đã nổi  tiếng, mà ngày bé, chúng ta thường nhận được do tay bà mẹ đã  đi đâu một chuyến xa về? Cái thứ bánh đậu khô, bột nhỏ như  phấn, đóng hình vuông, có in dấu một hai chữ triện. Thuở nhỏ,  chúng ta thích ăn thức quà ấy lắm, nhưng nếu chúng ta mắc bệnh  ho, thì không khỏi lắm lúc bực mình. Miếng bánh vừa bỏ mồm  chưa kịp nuốt, một cơn ho đã làm bật ra ngoài như làn khói...  Mắt chỉ còn tiếc ngẩn ngơ nhìn.
Bây  giờ thứ bánh đậu Hải Dương ấy không còn nữa. Có lẽ người ta  thấy cái bất tiện của bột khô cho các trẻ bé và cho các ông  cụ già. Ở Hà Nội, người ta làm một thứ bánh đậu ngon hơn, đó  là một thứ bánh đậu ướt, thứ bánh đậu có mỡ. Một thứ bánh  để ăn trong khi uống chè Tàu, cái vị béo ngọt của bánh rất  ăn với cái vị đắng của nước chè.” 
Nếu  bạn muốn đi tìm lại thứ bánh đậu khô đó thì hãy vào Huế. Vì ở Huế vẫn  còn sản xuất thứ bánh đậu khô làm bằng đậu xanh hay đậu quyên mà Thạch  Lam đã nói đến, nhưng lại gọi là bánh in.
Nói  tóm lại, trong ăn uống có mặt bảo thủ của khẩu vị, của lối ăn, của thức  ăn, nhưng đồng thời vẫn có sự thay đổi dần dần của khẩu vị tập thể.  Trong thời đại toàn cầu hóa, cách ăn uống của chúng ta cũng phải thay  đổi cho thích hợp với nhịp sống và làm việc của thời hiện đại. Trong  kinh doanh ăn uống, nhiều món ăn mới được sáng tạo nhưng vẫn được phát  triển trong dòng văn hóa ăn uống của người Việt. Nhưng biết nói thế nào,  khi về mặt ẩm thực, Hà Nội vẫn còn chậm chân trong việc đa dạng hóa các  món ăn. Để rồi việc vinh danh các món ăn truyền thống Việt lại phải để  cho các đầu bếp… người Pháp đến lập nghiệp tại Hà Nội ở những nhà hàng  và khách sạn lớn, giới thiệu trên hệ thống truyền thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét