TS. Nguyễn Thị Diệu Thảo
Vào  những thập niên cuối thế kỉ XVII, lưu dân người Việt theo đường biển,  ngược sông Tiền, qua cửa sông Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu tiến vào khai  thác vùng Mỹ Tho ngày nay. Một bộ phận khác đi xa hơn đã đến tận Hà Tiên  để sinh sống. Trong lớp dân cư mới đến vùng Đồng Nai - Gia Định. Hà  Tiên vào thế kỉ XVII có một số đông người Hoa đến từ Quảng Đông, Quảng  Tây... (Trung Quốc). Đến thế kỉ XVIII lại có thêm một số đông người Chăm  gia nhập vào số cư dân ở đây. Đồng thời với những bước khai hoang của  nhân dân lao động, chính quyền nhà Nguyễn đã giúp cho giai cấp địa chủ  phát triển ở Nam bộ. Chính vì địa chủ là chỗ dựa cho chính quyền phong  kiến nhà Nguyễn nên các vua nhà Nguyễn trong suốt nửa đầu thế kỉ XIX  càng chú tâm phát triển giai cấp này. Triều đình nhà Nguyễn ra lệnh cho  quan lại địa phương khuyến khích khai phá đất hoang. Người nông dân,  nhất là người nông dân phiêu bạt đã khai hoang trồng trọt để sinh sống  cho dù có sự khuyến khích của chính quyền hay không. Cũng như ở giai  đoạn trước, người dân tự đi tìm đất khai phá gồm rất nhiều thành phần:  những người dân phiêu bạt vì nghèo khổ, vì chiến tranh... từ các tỉnh  Trung Bộ đi vào Nam tiếp tục làn sóng di dân đã diễn ra từ thế kỷ trước.  Trong thành phần này còn có nhiều nông dân nghèo khổ đã sinh sống từ  lâu ở Nam bộ. Ngoài những nông dân lưu tán còn có những người trốn tránh  việc cấm đạo hay nghi kỵ tôn giáo của chính quyền nhà Nguyễn. Trong các  lưu dân khai phá còn có những cư dân định cư trong thôn ấp cũng góp  phần vào việc khai hoang đất đai. Họ tiếp tục lấn dần vào vùng đất hoang  vốn còn nhiều trong khu vực cư trú, nới rộng thêm diện tích cày cấy  trồng trọt. Lúc này những người đi khai hoang đã được phép của chính  quyền thành lập làng mới. Làng lúc đầu chiếm một diện tích rất rộng  nhưng phần lớn còn hoang vu, dần dần đất đai trồng trọt được mở rộng,  dân cư ngày càng đông đúc hơn, đến một lúc nào đó một phần đất đai và cư  dân sẽ tách ra hình thành làng mới.
Do  điều kiện lịch sử như trên, cư dân Nam bộ gồm nhiều vùng miền, dân tộc  khác nhau, qua đó phần nào tạo nên bản sắc ẩm thực cho vùng đất này. Các  lưu dân khi rời xa quê hương để lập nghiệp, họ mang theo cả những món  ăn, cách nấu của nhiều món ăn từ quê hương mình vào. Ẩm thực Nam bộ vì  vậy được hình thành, có  những món ăn mang hương vị rất riêng biệt, độc đáo của từng địa phương.  Mỗi món ăn ở từng địa phương đều có nét riêng biệt, nhưng khi vào đến  Nam bộ, tất cả đều mang phong cách của vùng sông nước phương Nam vốn rất  hoang dã, hào phóng. Chỉ có những nguyên liệu rất đơn sơ, bình dị cũng  tạo nên một phong thái riêng cho các món ăn ở đây. Ngày nay, có rất  nhiều món ăn miền Nam là kết quả được tổng hợp và biến hoá từ nhiều nền  văn hoá cũng như vùng miền khác nhau, trải qua chiều dài lịch sử kéo  dài hàng mấy trăm năm. Món ăn Nam bộ ngày nay đã biến dạng vô cùng, từ  món ăn thường ngày đến các món đãi tiệc. Khi đất nước ta phát triển,  giao lưu văn hoá với nhiều nước trên thế giới, cũng chính là bắt nguồn  cho sự biến hoá tiếp theo của các món ăn. Tuy nhiên, các món ăn này vẫn  giữ được bản chất của nó dù rằng nguyên liệu và cách chế biến đã có phần  thay đổi. 
  1. Các món ăn đặc trưng của Nam bộ
Món  ăn Nam bộ đa dạng, phong phú về nguyên liệu sử dụng và cách chế biến.  Nét nổi bật của các món ăn trên vùng đất Nam bộ với nguồn thủy sản  phong phú thể hiện sự hào phóng và hoang dã. Phong cách ẩm thực vùng  sông nước Nam bộ đơn giản nhưng lại có sức hấp dẫn và thu hút người  thưởng thức. Các món ăn của Nam bộ chính là sự thể hiện phong cách sống  của người dân nơi đây từ khi tìm ra vùng đất mới khai hoang và lập  nghiệp - một cuộc sống gần gũi gắn liền với thiên nhiên, sông nước và  cũng chính thiên nhiên, sông nước ấy đã nuôi sống họ. Từ các nguyên  liệu, người Nam bộ chế biến nhiều món ăn đậm chất miền Nam như món cá  chiên xù, cua rang me, cua rang muối. Độc đáo mà bình dị như món bánh  cóng Sóc Trăng, bánh giá Gò Công, lươn um lá cách hoặc món chả giò với  vô vàn biến thể của nó. Bên cạnh đó là các món gỏi bồn bồn, gỏi ngó  sen..., rất lạ miệng như món canh súng Phước Hải, gỏi da cá, gỏi sầu  đâu... Các món lạ của miền Nam cũng nói lên tính chất phóng khoáng của  con người ở đây, không theo một khuôn phép, mực thước nào cả. Cái lạ của  món ăn miền Nam thể hiện qua sự phong phú của nguyên liệu và cách chế  biến. Cá, tôm, cua, lươn, ếch hàng trăm loại, được chế biến từ mặn,  ngọt, chua, cay, sống, chín đa dạng. Thật ra cái lạ ấy chỉ nổi bật trên  cái nền hoang dã là vì trong quá trình đi khẩn hoang tìm vùng đất mới,  người dân miền Nam đã phải trải qua nhiều khó khăn, thiếu thốn. Từ mọi  thứ lá rừng, cây hoang khi nếm thử không thấy độc thì họ đều coi là rau  ăn. Mọi con vật từ trên rừng xuống dưới sông, từ đồng ruộng cho đến biển  tất cả đều có thể là thức ăn. 

Gỏi bồn bồn tôm
Các  món ăn miền Nam gắn liền với cuộc sống lao động, điều kiện địa lí,  gắn liền với truyền thống nông nghiệp lúa nước, do đó không cầu kì, tỉ  mỉ, sang trọng như các món ăn Huế, không mực thước, thanh tao như món  miền Bắc. Tất cả thể hiện sự thật thà và lối sống chân lấm tay bùn của  người dân ở đây. Các món miền Nam như món canh chua thể hiện sự trù phú  về sản vật của miền đất mới: nước canh thì chua, ngọt, mặn hòa hợp với  nhau, cá thì để nguyên con hoặc cắt khúc lớn, và còn kèm nhiều món gia  vị: rau thơm, cà chua, đậu bắp... vừa thơm lại vừa thật cay. Món lẩu  mắm cũng vậy, nó thể hiện khá đầy đủ các chủng loại thực phẩm và nhiều  mùi vị...
Trong  thực đơn phong phú, đa dạng của các món thủy sản Nam bộ ngày nay, nét  đặc sắc của những món ăn từ thời khẩn hoang có phần nào giảm đi do  nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên dần dần được thay thế bằng các nguyên  liệu nuôi, thả; điều kiện thực hiện theo kiểu công nghiệp cũng không cho  phép. Tuy vậy, các món thủy sản miền Nam vẫn là những món ăn mang đặc  tính chung của miền Nam là tính tổng hợp và biến hoá, phối hợp từ ý  tưởng của các vùng miền, địa phương và của các dân tộc khác. Các món ăn  đa dạng này thường tập trung ở các trung tâm đô thị lớn, trong đó Sài  Gòn là trung tâm kinh tế và du lịch của miền Nam. Đây cũng là nơi hội tụ  sản vật “tứ xứ” với đủ loại thực phẩm và các món ăn của mọi miền đất  nước, trong đó các món ăn Nam bộ chiếm đa số và được hầu hết khách ưa  chuộng. Các vị chua, ngọt, béo đậm đặc trưng của miền Nam cũng dần dần  được điều chỉnh cho phù hợp với các vùng miền khác nhau, mang tính đại  chúng và dễ chấp nhận hơn. Điều đó cho thấy sự phát triển của các món ăn  Nam bộ trong tổng thể văn hoá ẩm thực của cả nước, tạo sự dung hòa và  phong phú cho văn hoá ẩm thực Việt Nam. Món cá lóc nướng trui, có từ  thời khẩn hoang lập đất, có được chính từ vùng đồng bằng sông Cửu Long  đến nay trở thành món ăn của mọi nơi, mọi nhà. Cá lóc nướng trui có lẽ  là món ăn phổ biến mà cư dân miền Nam ở thôn quê rất thích do dễ chế  biến, nguyên liệu đơn giản mà hấp dẫn, nhậu thì rất “bắt”... Ở thôn quê  khi nướng trui không bao giờ người ta dùng vỉ nướng và than hồng như  nướng các thức ăn khác, mà là nướng trên lửa ngọn, lửa rơm. Chẻ một que  tre tươi vót nhọn một đầu, xiên suốt từ miệng đến đuôi cá, cắm đứng  xuống đất, phủ rơm khô lên đốt. Khi rơm tàn cũng là lúc cá chín, mùi  thơm bốc lên là ăn được. Điểm quan trọng của món ăn là cá phải tươi,  sống... Ở thành phố hay trong các nhà hàng, không có điều kiện để thực  hiện như cách trên do thiếu rơm và cũng không có chỗ để cắm cá. Hơn nữa  thực hiện cách này phải bắt thực khách chờ đợi khá lâu, vì vậy món cá  nướng được chế biến bằng cách gói giấy bạc, bọc loại đất sét nhân tạo,  nướng chín sau đó cho vào ống tre nhằm mục đích tạo ấn tượng cho người  ăn mà thôi. Tuy nhiên dù theo cách chế biến nào, điều quan trọng trong  món cá nướng trui là cá phải còn sống, lửa vừa độ để cá chín mà không bị  khô và quan trọng hơn hết là muối ớt chấm kèm với món ăn phải dùng loại  muối hột, hay như cách gọi trong dân dã là muối “cục” thì mới ngon.  Hoặc từ món mắm kho dân dã khi vào đến thành phố đã biến hoá trở thành  món lẩu mắm nổi tiếng và là món đặc trưng Nam bộ được đem ra giới  thiệu cùng du khách các nơi. Xuất phát từ món mắm và rau hay món mắm  kho, ảnh hưởng món bún nước lèo nấu cá với ngãi bún của người Campuchia,  lại được thêm thắt nguyên liệu thịt quay theo khẩu vị của người Trung  Hoa. Khi xuất hiện ở các nhà hàng lớn, nó lại có thêm các nguyên liệu  hải sản như tôm, mực cho thêm phần phong phú và trở thành món ăn nổi  tiếng của miền Nam.
2. Những món ăn Nam bộ chịu ảnh hưởng ẩm thực Thăng Long – Hà Nội
Chịu  ảnh hưởng ẩm thực Thăng Long, trước tiên phải nhắc đến món phở của Sài  Gòn. Nói phở Sài Gòn chứ không nói phở Nam bộ, vì không đâu ở miền Nam,  phở nhiều như ở Sài Gòn. Đi dần về miền Tây, người ta ít thấy phở hơn.  Mặc dù món phở cũng có xuất phát từ miền Bắc, nhưng có lẽ người Sài Gòn  ăn phở cũng nhiều không kém người dân Thăng Long. Từ rất lâu, Sài Gòn đã  nổi tiếng với các tiệm Phở Hòa, Phở tàu bay. Gần đây, thương hiệu Phở  24 đưa món phở Việt Nam nhân rộng khắp các tỉnh thành trong nước và  nhiều nước khác nữa, mà xuất xứ của Phở 24 thì lại là từ Sài Gòn, từ một  chủ doanh nghiệp người Sài Gòn. Ăn phở Sài Gòn khác nhiều so với phở  Bắc, tuy rằng cách nấu đều từ xương bò ninh kỹ với củ hành nướng, gừng  nướng nhằm làm mất mùi gây gây của xương bò, cũng các loại gia vị như  hoa hồi, quế, đinh hương... thành phần và tỷ lệ có thay đổi khác nhau  tùy công thức nấu của mỗi hàng quán. Dù vậy, trước hết là sự khác nhau  về vị. Nước dùng phở của Nam bộ dứt khoát phải thật đậm đà, là cái ngọt  từ xương bò thật đầy và hầm đủ thời gian để nước ngọt đậm. Gia vị ngoài  vị mặn, ngọt của xương còn là vị ngọt của đường. Người Nam bộ có thói  quen ăn ngọt, món canh, món xúp, món bún và tất nhiên cả món phở đều có  đường. Tuy nhiên, độ ngọt của món ăn ở từng địa phương có khác nhau.  Người Sài Gòn biết gia giảm vị mặn, vị ngọt sao cho cân bằng, để người  thưởng thức chỉ cảm nhận vị ngon trong tô phở chứ không có cảm giác khó  chịu vì vị ngọt của đường. Tô phở miền Nam, ngoài tương đen và tương đỏ,  còn phải được dọn chung với chanh tươi, ớt sừng tươi xắt lát và các  loại rau húng cây, húng quế, ngò gai. Nhiều tiệm phở miền Nam còn dọn  chung với cả rau om. Giá trụng hoặc giá sống và hành chần được thực  khách gọi thêm, nhưng cũng là những thành phần hầu như không thể thiếu  trong món phở. Tô phở ở miền Nam có nhiều phụ liệu như vậy, thế mà khi  dùng, thực khách khi thì còn gọi thêm chén tái, chén nước tiết, chén bò  viên hay chén trứng nữa!
Bên  cạnh phở, người Nam bộ từ lâu đã rất quen với các món bún. Bún miền Nam  rất đa đạng ngoài món bún mắm, bún nước lèo chịu ảnh hưởng ẩm thực  người Chăm vùng tây Nam bộ, còn có các món bún giò heo, bún riêu, bún  ốc, bún thịt nướng, bún nem, bún bì... Món bún riêu từ lâu đã rất quen  với người dân Nam bộ, với phần váng cua và màu đỏ cam của cà chua xào  thơm với củ hành tím phi vàng. Tô bún riêu của người Nam bộ tuy có xuất  phát đầu tiên từ món bún riêu của miền Bắc, nhưng vào đến miền Nam, nó  đã thay đổi rất nhiều. Món ăn Thăng Long - Hà Nội thì luôn có đặc tính  thanh cảnh, thuần túy nổi bật vị của nguyên liệu chính trong đó. Vị là  vị ngọt thanh, không đường, ít mặn, vì vậy món bún riêu truyền thống của  miền Bắc chỉ là nước và riêu cua đồng, ăn với bún, rau và mắm tôm. Còn  món bún riêu miền Nam thì ngoài vị ngọt của cua đồng, nước dùng còn được  nấu với sườn non để tăng độ ngọt đậm đà cho món ăn. Màu sắc tô bún miền  Nam tăng phần hấp dẫn nhờ cà chua xào lấy màu, thêm một ít màu lấy từ  loại hạt điều chuyên dùng tạo màu cho các món ăn. Nguyên liệu trong tô  bún riêu miền Nam thì vô cùng đa dạng, không chỉ là phần váng riêu trong  tô bún mà còn thêm vài miếng đậu chiên, miếng huyết heo. Rau các loại  và mắm tôm thì dầu là tô bún riêu miền Bắc hay ở miền Nam cũng đều gần  như bắt buộc phải có. Cách chế biến món ăn của miền Nam đa dạng, phong  phú nhưng vẫn giữ được hương vị truyền thống của món ăn. Cách chế biến  này gần đây cũng được nhiều người dân Thăng Long - Hà Nội ưa chuộng, và  có thể thấy qua món bún riêu của Hà Nội giờ cũng có thêm đậu, thêm  huyết, có nơi còn thêm cả thịt bò tái, tôm tươi nữa.
Tương  tự như món bún riêu, món bún ốc của Nam bộ cũng có xuất xứ từ món bún  ốc truyền thống của miền Bắc, nhưng cách nấu của người miền Nam thì rất  khác. Món bún ốc của miền Bắc cũng là vị ngọt và chua nhẹ của giấm bỗng,  không có chất béo vì ốc được luộc chín và khêu lấy thịt cho vào bát  bún. Nhưng món bún ốc vào miền Nam thì được chế biến khác đi ít nhiều.  Người miền Nam không có thói quen dùng giấm bỗng trong chế biến. Vì vậy,  vị chua của giấm bỗng được thay bằng vị của cà chua. Nếu muốn chua hơn  thì dùng thêm với nước me. Ốc thì lấy thịt và xào thật thơm rồi mới cho  vào tô bún. Người miền Nam không bao giờ dùng nước luộc ốc để làm nước  dùng. Nước dùng của bún ốc thì sử dụng nước ngọt nấu từ cua và sườn heo  của món bún riêu. Do đó, món bún ốc của Nam bộ bao giờ cũng đi liền với  bún riêu. Tô bún ốc miền Nam vì vậy nhìn béo ngậy. Người dân Thăng Long -  Hà Nội vào Nam, ăn tô bún ốc và cho rằng nấu thế là không đúng, không  có mùi giấm bỗng, không thanh tao. Ngược lại, người Nam bộ ra Bắc ăn bát  bún ốc thanh cảnh đúng kiểu Thăng Long - Hà Nội thì lại cho là nhạt  nhẽo, thiếu vị, thiếu béo. Thực ra trong ẩm thực không thể nói nấu thế  nào là đúng hay sai. Dù món ăn có xuất xứ từ Thăng Long, nhưng trải qua  quãng thời gian dài du nhập vào Nam, đã có biến đổi cho phù hợp khẩu vị,  sở thích của người dân ở đây. Chỉ có thể nói là ngon hay không ngon,  thích hay không thích chứ không phân tích đúng hay sai. Vị của món ăn đã  khác nhau tùy theo thói quen ăn uống của từng địa phương, từng gia đình  và vì vậy cả trong cách chế biến cũng sẽ có sự khác biệt. Sự khác biệt  này ngoài nguyên nhân chính xuất phát từ thói quen ăn uống, còn do điều  kiện thiên nhiên, xã hội. Tính chất của các nguyên liệu thực phẩm ở mỗi  địa phương cũng có sự khác biệt. Tất cả các yếu tố đó tạo nên nét đặc  trưng cho từng món ăn của các vùng miền. 

Tô bún ốc miền Nam
Ngoài  các loại bún nóng, ăn với nước dùng nóng, Nam bộ còn nhiều món bún dùng  chung với nước mắm, như món bún thịt nướng, bún chả giò, bún nem, bún  chạo tôm, bún bì, bún thịt bò xào... Trong đó món bún thịt nướng là món  ăn có nhiều điểm tương đồng với món bún chả của người Hà Nội. Nói tương  đồng vì chưa hẳn món bún thịt nướng là biến tấu từ món bún chả Hà Nội,  vì thực tế, cách dùng bún tươi với các loại thịt, nem, chạo, bì với nước  mắm pha và rau sống rất phổ biến đối với người Nam bộ. Cách ăn các món  bún này cũng khác xa với món bún chả. Bún chả Hà Nội nguyên liệu chính  là chả, tức thịt băm nhuyễn, viên thành viên tròn, dẹp và nướng vàng thả  vào bát nước chấm. Nước chấm được pha thật nhạt, nhạt đến mức hầu như  không cảm giác vị mặn trong đó. Bún và rau, chủ yếu là các loại rau mùi  được dọn riêng. Tất cả cho lên mâm nhỏ. Khi thưởng thức, người ta gắp  một ít bún và rau mùi, nhúng vào bát nước chấm có thả mấy miếng su hào  ngâm chua. Món bún chả của Hà Nội ngoài chả còn là thịt nướng, vì vậy  trông có vẻ rất giống món bún thịt nướng của Nam bộ. Tuy nhiên, cách đây  khoảng mười năm, nhiều người dân Nam bộ có dịp đến Hà nội thưởng thức  món bún chả Hàng Mành, hầu như không thể cảm nhận được cái ngon của món  ăn. Lý do duy nhất chỉ vì loại nước chấm rất nhạt này. Có dịp dùng món  bún thịt nướng Nam bộ mới thấy sự khác biệt với món bún chả và sự độc  đáo trong món ăn này. Thịt nướng trong món ăn được ướp gia vị thật đậm  đà, cân đối giữa các vị ngọt, mặn, thơm. Có nơi người ta còn cho thêm ít  mè hoặc sả vào để khi nướng, thịt sẽ thơm ngon hơn. Rau thì đủ loại,  nào là salad và các loại rau thơm xắt nhỏ, một ít giá sống bẻ gãy đôi,  và đặc biệt không thể thiếu dưa leo bằm nhuyễn. Các loại rau này được  xếp một bên, bún một bên. Trên là những miếng thịt nướng thơm phức. Như  vậy cũng còn chưa đủ, trên cùng người ta còn cho thêm ít mỡ hành xanh  biếc, và một nhúm đậu phộng rang vàng nữa. Món bún thịt nướng của Nam bộ  chưa ăn chỉ nhìn thấy cách bài trí, màu sắc và mùi thơm cũng đã khiến  người ta có cảm giác ngon miệng rồi. Cuối cùng là phần nước chấm. Người  dân Nam bộ rất coi trọng phần nước chấm trong các món ăn. Nước mắm ăn  bún thịt nướng phải đầy đủ vị ngọt, mặn vừa, chua nhẹ của chanh. Đặc  biệt, bên trên phải phủ đầy màu đỏ tươi của ớt băm nhuyễn và những tép  chanh mọng nước. Chén nước mắm cho món bún thịt nướng còn được làm phong  phú hơn nhờ những sợi đồ chua là cà rốt, củ cải trắng ngâm giấm đường  thả vào, tạo nên vị chua, ngọt và độ giòn tan khi thưởng thức. 
3. Ẩm thực Nam bộ, ẩm thực Thăng Long – Hà Nội trong sự phát triển chung của xã hội
Ẩm  thực là phần quan trọng tạo nên bộ mặt văn hóa của một địa phương nói  riêng và của đất nước nói chung. Muốn theo kịp trào lưu phát triển kinh  tế của các nước, cần tiếp nhận các nền văn hoá khác nhau của thế giới.  Điều này góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế nước nhà, đồng  thời là một yếu tố quan trọng thể hiện bộ mặt văn hoá của đất nước, thể  hiện bản sắc Việt Nam. Ngày nay, ngành dịch vụ du lịch phát triển, càng  có nhiều nhà hàng, quán xá mọc lên với đủ loại hình: sang trọng, lịch  sự, bình dân... với rất nhiều loại món ăn đặc sản của các quốc gia, vùng  miền khác nhau. Việc kinh doanh ăn uống không chỉ đơn thuần là kinh  doanh mà còn là cơ hội nhằm giới thiệu, giao lưu về văn hoá ẩm thực đến  với mọi người dân trong nước cũng như bè bạn khắp năm châu bốn bể. Món  ăn miền Nam bản thân nó đã mang tính tổng hợp, nay càng cần có sự biến  hoá cho phù hợp với yêu cầu này. Sài Gòn là nơi quy tụ nhiều nét văn hoá  ẩm thực trong nước (Bắc - Trung - Nam),  ẩm thực nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Pháp,  Mỹ...) nhưng nổi bật trong đó vẫn là ẩm thực Nam bộ. Nguồn nguyên liệu  khác nhau tạo ra những món ăn đặc trưng ở từng địa phương nhưng vẫn đảm  bảo được những tinh hoa cũng như hương vị nguyên thủy của món ăn. Để  thích nghi với hoàn cảnh chế biến, vừa đảm bảo tính chuyên nghiệp trong  phục vụ, đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh trong ăn uống, cách chế biến  các món ăn ở từng vùng miền đã khác đi so với cách làm xa xưa nhưng vẫn  phải đảm bảo được nét riêng của món ăn đó.
   Từng  địa phương, có sự khác biệt về đặc điểm địa lí, khí hậu, thời tiết tạo  nên sự khan hiếm một số loại thực phẩm, đặc biệt khi vùng miền này muốn  thực hiện các món ăn ở vùng miền khác. Vì vậy, trong lĩnh vực ẩm thực  cần có sự biến hóa, thay đổi trong chế biến cũng như năng động trong  việc sử dụng nguồn thực phẩm. Khi muốn giới thiệu với thực khách một món  ăn truyền thống của địa phương nào đó, ví dụ món phở Hà Nội, món bún  ốc, bún chả của miền Bắc, tốt nhất vẫn phải tìm đúng nguồn nguyên liệu  của địa phương đó. Ăn bún chả Hà Nội mà dùng với rau quế, húng cây của  Sài Gòn thì không thể cảm nhận được cái ngon của món ăn. Đó phải là lá  tía tô, nhánh húng Láng miền Bắc, ăn bún đậu thì phải là miếng đậu non  của Hà Nội, sợi bún của Hà Nội. Còn khi chế biến các món ăn đó theo cách  của miền Nam, phải cảm nhận được cái hồn trong con người Nam bộ, có  hiểu biết về bản sắc văn hóa Nam bộ. Các  món ăn đa dạng của cả nước thường tập trung ở các trung tâm đô thị lớn,  trong đó Hà Nội và Sài Gòn là nơi tiếp thu khá nhanh với các món ăn  mới. Đây cũng là nơi hội tụ đủ loại thực phẩm và các món ăn của mọi miền  đất nước, thu hút được sự chú ý của thực khách các nơi cũng như mọi  người ở đây, nó cũng là nguồn cảm hứng cho những đầu bếp sáng tạo ra  những món ăn độc đáo từ nguồn những món ăn truyền thống của mọi vùng  miền đất nước. 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét