Theo  Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, Phấn trong ngưu nhục phấn 牛肉 粉 nghĩa  là “bột gạo, phấn gạo” - Phấn là bột nhỏ mịn để trang điểm.  Một  từ  điển khác của Trung Quốc định nghĩa Phấn  là bột mì, bánh phở, miến,   bún..  .
".  粉 pinyin đọc là fen3, Quảng Đông đọc là fan2. Lúc đầu, người  Việt Nam   bán xáo trâu, xáo bò, còn người Trung Quốc bán " ngưu nhục phấn". Một  số  người bán rong thức ăn trên đường phố ban đêm là người Trung Quốc,  họ  rao theo tiếng Trung Quốc.Nhiều hình vẽ và chụp cho thấy người Trung   Quốc bán "ngưu nhục phấn" trên vĩa hè Hà Nội. Tiếng rao ở xa, bay  trong  gió lạnh mùa đông đã làm cho người nghe không rõ  nên  âm 
 thành  "phơ" rồi "phở" chăng? Cái phụ âm f và ph giống nhau nên trao đổi cho nhau như pháp法/phép; phiên番/phen; phiên 藩/phên
phái派/phe. . .chăng?
   ),  kể chuyện lúc trẻ khoảng 10 tuổi, tức khoảng 1910, chính người  Việt  Nam và Trung Quốc rao là "phở". Ông tả cảnh Hà Nội ban đêm:
Nguyễn   Dư căn cứ vào tài liệu của Henri Oger mà cho rằng Phở  xuất hiên trước   1909 do người Việt và người Hoa cùng bán rong  ở Hà Nội.. Trong  bộ    tranh đồ sộ mà Oger đã cho khắc in, có hai bức rất đáng chú ý  (H.1  và    H.2) mà tác giả Nguyễn Dư đã trưng ra để phân tích trong bài  "Phở,    phởn,  phịa..." (Lyon, 2/2001). Về bức H.1, Nguyễn Dư viết:
Vì    gánh phở thường có bếp lửa nên có người mới đưa ra thuyết rằng người     Pháp nhìn thấy cái hàng phở rong đi qua mà lại có ánh lửa bập bùng,  bèn    kêu  lên: "feu!  feu!" (Lửa lửa, hay bếp lửa). Người bán hiểu ý,  trả    lời" Oui, feu" và bưng phở vào. Thế là ra cái tên "phở".
Giả  thuyết này không đúng vì không riêng gì món phở mà nhiều món ăn khác   như cháo gà,  cháo vịt, miến gà, miến vịt, xôi, chè. . .cũng cần nồi hâm  nóng nhất là xứ Bắc mùa đông lạnh. Thế sao  chỉ có phở mới được Tây gọi  "feu"! "feu"!
Với hương thơm đặc  biệt của các loại   rau Việt Nam, Thị   Ba đã biến pot-au-feu thành món  phở - vì đã thử đi   thử lại nhiều lần mà   vẫn không tài nào nấu được  cái món  Pháp kia -    và nhanh chóng được   nhiều người Sài Gòn thời đó  biết đến. Món ăn mới   này ban đầu được hai   người tình say mê thưởng  thức, sau đó đến các  bạn  bè, rồi bạn bè của bạn   bè.
Ông  ngoại của Alain Guillemin sau  đó đã trở về Normandie,  để  lại cho   Thị Ba khoản phụ cấp giải ngũ ít ỏi  của mình. Với số tiền  này,  Thị Ba   trở về Hà Nội, nơi chôn rau cắt  rốn, mở một cửa hàng ăn và  hiệu  này   nhanh chóng trở thành nơi ưa thích  của những người sành ăn ở  Hà Nội.    Danh tiếng của Thị Ba và của món  phở ngày một lan xa.(8)
Nhưng  bài viết của Alain Guillemin là truyện, không  phải  là biên khảo .    Hơn nữa,  ông  ngoại tác giả và Thị Ba  sống tại  Việt Nam trong  khoảng     1910 -1914 mà năm 1909 thì món yụk phẳn, tức món phở đã có mặt   trong    quyển “Technique du peuple annamite” (Kỹ thuật của dân An Nam)   của  Henri   Oger nói đến rồi; nghĩa là phở đã ra đời trước cả năm 1909  nữa.
Nhưng  cuộc giao thiệp với Pháp cũng có ảnh hưởng đến phở. Trước  khi Pháp  đến, người Việt Nam it ăn thịt trâu, thịt bò vì trâu bò   dùng  cày bừa  và rất đắt. Người ta chỉ ăn trâu bò khi chúng  già hoặc bị bệnh.   Thỉnh   thoảng cũng có những phú  ông vật trâu bò ăn mừng nhưng thật hiếm    hoi.  Khi Pháp qua, họ nhập cảng bò và làm thịt. Từ đó người Việt Nam   mới   dùng thịt bò thường xuyên. Và từ đó, thịt bò mới đem nấu cháo,  thịt bò
 Beefsteak và dần dần khai sinh ra   phở.
Dẫu sao ý kiến của A. Guillemin  cũng trùng với ý kiến của linh mục Eugène Gouin khi định nghĩa Phở là 
Pot au feu ( Bò hầm, bò xáo, bò xào, bò kho...).  Có thể lúc 1909, phở chưa thông dụng, bà thị Ba chưa biết Phở cho nên  có sự mày mò sáng tạo. Sau về Hà Nội, học tập thực tế, bà cũng nấu được  nồi phở như thiên hạ. Trong đầu thế kỷ XX, nhiều người đã cải tiến, đóng  góp mà cho ta có nhiều loại phở khác nhau, rất phong phú nhưng cơ bản  không khác nhau mấy.
3. PHỞ GỐC VIỆT NAM
Người ta có thói quen đi tìm nguồn gốc ngôn ngữ như ông Lê Ngọc Trụ, Bình Nguyên Lộc. Điều này cũng đúng mà cũng sai.
Đúng  là vì một số từ ngữ trên quốc tế ảnh hưởng nhau. Văn hóa La Hy đã ảnh  hưởng đến Âu Mỹ và văn hóa Trung Ấn lan tràn Á châu. Nay thì ngôn ngữ Âu  Mỹ thâm nhập thế giới.
Thí dụ:
Bụt : Buddha (Ấn)
Cà phê:café (Pháp)
Cà nong: canon (Pháp)
Phen : friend (Anh, Mỹ)
Xà phòng, xà bong: savon (Pháp)
Xà lách: salade (Pháp)
Xà lim :cellule (Pháp)
Xà lúp: chaloupe (Pháp)
Tuy nhiên, cũng có những điều không chính xác, do suy luận:
Thí dụ :
Trong 
"Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam", Bình Nguyên Lộc bảo: Sao tua rua, là tiếng Mã Lai và  câu tiếng Việt 8 từ, gồm toàn từ Mã Lai: 
Hắn lấy ná (nỏ) bắn chim làm rụng lá .
Ngoài  ra, chúng ta thấy xung quanh ta nhiều ngôn ngữ giống Việt Nam. Người  Mường  nói nak  là nước (người miền Trung cũng nói nước là nác), và họ  nói "ti viền" là đi về; "bà mế "là bà mẹ. Ngẫu nhiên hay có nguồn gốc?  Nếu có ảnh hưởng thì ai ảnh hưởng ai? Hai bên chung nguồn gốc như người  Pháp bản quốc và người Pháp ở Canada,  Tunisia, hay ai ảnh hưởng đến ai?  Mã Lai Việt chung nguồn gốc hay Mã Lai  là gốc? Hay Việt là gốc? Có  thuyết cho rằng người Mã Lai bắc tiến vào  Việt Nam. Cũng có thuyết cho  rằng lúc đầu quả địa cầu liền nhau, sau  tách ra. Người Mã Lai có thể là  người Việt trôi theo lục địa ra đại  dương. Cũng có thể thuyết bà Âu Cơ  là đúng , một số con cháu Lạc Long  Quân ra biển mà tấp vào Mã Lai.  Cũng có thể ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt  chạy sang Mã Lai....
Còn phải nhiều công cuộc sưu tầm nữa, chứ không phải giống âm thanh và nghĩa là có họ hàng.. .
Trong  ngôn ngữ thế giới có nhiều trùng hợp ngẫu nhiên. Thí dụ trẻ con mới  phát âm, miệng chưa mở rộng nên phát âm đầu tiên là âm môi. Người mẹ là  vật đầu tiên đứa bé nhìn thấy cho nên nó gọi: mẹ, má, mama, mother,  mère.. . Vì luật chung là thế nên không thể bảo tiếng "mẹ" trong tiếng  Việt xuất xứ từ tiếng "mẫu" của Trung Quốc, hay tiếng "mère" của Pháp,  và  tiếng "mother" của Mỹ!
Người Mỹ đến Việt Nam sau đệ nhị thế  chiến. Nhưng từ lâu trẻ con đã chơi "oản tù tì", cho nên không thể bảo  "oản tù tì" là gốc Anh, Mỹ (One, two, three)!
Về văn hóa cũng  vậy, nhiều nước ăn trầu , trồng tre, đa thê, tảo hôn không phải riêng  Việt Nam. Chúng ta yêu cha mẹ, mà loài vật cũng thương con, hy sinh cho  con cho nên không thể bảo  nhờ đạo Khổng mà dân ta biết hiếu thảo, nhân  ái. Ông cha ta chấp nhận đạo Khổng vì đạo Khổng hợp tình người và quy  luật xã hội. Tình cha con, mẹ con, tình gia đình là luật thiên nhiên chỉ  có chủ nghĩa tam vô mới phá hoại tình cha con, vợ chồng và tự do cá  nhân.
Vì vậy, công việc tìm nguồn gốc từ ngữ và nguồn gốc văn hóa nói chung rất khó.
Như vậy, tiếng phở và phấn có thể ngẫu nhiên trùng nhau. Có thể phở là tiếng Việt thuần túy nhưng đã không còn thông dụng.
Về  nội dung phở, hai bên hoàn toàn khác nhau. Khi nội dung hoàn toàn khác  nhau thì không thể bảo chung nguồn gốc. Tại Hà Nội, người Trung Quốc bán  hàng "ngưu nhục phấn" và người Việt bán phở. Thực chất hai món hàng  khác nhau tuy cùng nấu chung  bột gạo với thịt bò, thịt trâu.  Mà trên  thế giới này, việc nấu thịt với gạo hay mì là phổ biến. Việt Nam có cháo  bò, cháo gà, miến gà, xáo trâu, bún bò, bún bò kho, Trung Quốc có mì,  hủ tiếu, hoành thánh, Pháp có soup.. .Cái quan trọng là cách nấu, cách  pha chế. Nếu người Hoa sáng tạo món Phở, sao sau 1945 tại việt Nam họ  không bán món này mà chỉ có người Việt bán?  Tại Nam Kỳ, món hàng chủ  lưc và phổ biến của người Hoa là mỳ, hủ tiếu, hoành thánh chứ không phải  là phở. Chính người Hoa cũng phân biệt ra " ngưu nhục phấn" của họ với  "Việt Nam ngưu nhục phấn". Do vậy, phái chủ trương Phở là quốc hồn, quốc  túy cũng không sai.
II. SO SÁNH NGƯU NHỤC PHẤN VÀ PHỞ
Tại  Việt Nam, người Trung Quốc dường như không bán " ngưu nhục phấn" nhưng  tại lục địa, gồm cả Hồng Kông họ có quảng cáo món này.
Sau  khi khảo  về ngôn ngữ, ta sẽ khảo về hình thức và nội dung của "ngưu  nhục phấn"  của Trung quốc với "phở" Việt Nam. Nếu dịch ra Anh văn, ngưu  nhục phấn  và Phở danh xưng giống nhau.
Các tiệm Trung Quốc ghi là
   Beef vermicelli soup trong khi Việt Nam thường gọi là Phở là   
beef noodles /Noodle soup    . Còn người Trung Quốc gọi phở Việt Nam là "Việt Nam ngưu nhục phấn"越南牛肉粉.
Cả   hai giống nhau là nhiều nước, và có hai yếu tố chính là thịt bò và   bún/ bánh phở.Nhưng đi vào hình thức và nội dung, ta thấy hai bên khác  nhau.
Thật vậy, ngưu nhục phấn của Trung Quốc công thức nấu và hình thức tô ngưu nhục phấn cũng khác Việt Nam.
Dưới đây là hình ảnh một vài bát "ngưu nhục phấn" của Trung Quốc được quảng cáo trên báo điện tử:
牛肉粉丝汤

牛肉粉丝汤
牛肉粉丝汤
          牛肉粉丝汤 
 
Công thức nấu ngưu nhục phấn của Trung Quốc.
Xem hình ảnh dưới đây, Trung Quốc nấu từng bát .Đây là cách làm đơn giản cho vài người trong nhà ăn:
Công thức Trung Quốc:
-Ngâm bún/ mì sợi/ miến trong nước 15 phút.
-Cắt thịt bò từng miếng mỏng.
-Bỏ thịt bò vào nồi nấu, thêm gia vị
-Cho muối, thịt gà, nước thịt bò vào.
-Nấu xong bỏ vào bát, thêm vào it rau như hành ngò.
Wikipedia gọi ngưu nhục phấn là "Beef vermicelli soup", và dạy nấu ngưu nhục phấn như sau:
-Món     chính là thịt bò tươi, có chút mỡ, thơm ngon, đem  thái mỏng, thêm      muối, gừng, ớt, hành, tỏi, dầu ăn. Tại Trung quốc có nhiều tiệm "Beef      vermicelli soup". Có nhiều công thức khác nhau, nhưng công thức  trên  là    cơ bản.
Công thức Việt Nam:
Nước    dùng nói chung được làm bằng việc hầm xương bò, thịt dùng cho món phở    là thịt bò hoặc gà và gia vị bao gồm quế, hồi, gừng, thảo quả, đinh    hương, hạt mùi,... "Bánh phở", theo truyền thống, được làm từ bột gạo,    tráng thành tấm mỏng rồi cắt thành sợi.
Chúng ta chưa nếm  "ngưu nhục phấn" của Trung Quốc  nên   không có ý kiến,  nhưng chắc là  khác mùi vị và màu sắc như tô phở  Việt   Nam.
Như vậy,   chúng ta có thể dựa vào các tài liệu đầu  thế kỷ XX  để  nói rằng phở đã   xuất hiện  vào đầu thế kỷ XX, nguồn gốc  có thể do  âm  "phấn" của  Trung  Quốc, hoặc âm "phơ "của Pháp  để gọi  các thứ như  cháo  trâu,  cháo bò mà  biến thành sắc thái phở của Việt  Nam. Việc người  Hoa  bán "  hàng nhục  phấn" có giống phở không? Nếu phở  là của Trung  Hoa thì   sao từ trước cho  đến nay, người Trung Hoa không  có món "phở"  như  "phở"  Việt Nam. Thực tế ở  quốc nội và hải ngoại, dù  người Hoa nay  có  nấu phở, trương bảng "Phở Việt Nam" nhưng họ nấu giống  vị hủ tiếu chứ  không  giống phở Việt Nam.

Tô  Hoài cũng nói đến phở ở đầu thế kỷ XX.  Ngưu nhục phấn và Phở của   người Việt khác nhau.  Người Tàu bày ra Ngưu  Nhục phấn nhưng người Việt  sửa đổi đi nên Phở Việt ngon hơn.
Ông viết:
Hồi   ấy chưa có những hàng phở bán đêm. Người Tàu làm ra phở, nhưng  phở  của  người Tàu không ngon. Cũng tàn như trong đêm vừa qua. Ngưu  nhục   phần... nhục phần... nhục phần... Tiếng rao xưa cũ chẳng mấy ai còn    nhớ. Phải đến tay người ta làm lại cái "ngưu nhục phần" thành phở bò    chín, món quà sáng và ăn cả ngày. Những tiếng "phơ, phớ" của bác phở    gánh ở Gầm Cầu bước ra, cất tiếng chào cao cao, ấy là trời đã sáng hẳn.    Những bóng phố nhỏ, những ngõ phố ướt nhợt nhạt loãng ra.(11)
 
Ngoài   ra, kể từ năm 1943, trong văn học cũng như trong dân chúng,  tên  phở   được tất cả mọi người dùng" chỉ vì “Năm 1943 Thạch Lam đưa phở  vào   văn  học". Nó phải có từ trước và được mọi người dùng rộng rãi thì  đến   năm  1943, Thạch Lam mới có được nó mà đưa vào văn học chứ!
Thật vậy, vương quốc Phở đã bành trướng mãnh liệt ở Bắc Kỳ trước 1945. Vũ Bằng viết:
Trước   kia, còn thái bình, ta đã từng thấy có buổi sáng, hàng trăm người   chen  chúc khổ sở vào cái ngõ con bề ngang không quá một thước ở phố  Hàng   Khay, bên cạnh nhà Bát Si Nha hay xuống tận đằng sau chợ Hôm,  trong một   cái quán lá tồi tàn để thưởng thức cho kỳ được một hay hai  bát phở mới   yên tâm.
Thời  đó, nổi tiếng  có anh phở Sứt sáng lập ra món phở giò  (lấy thịt bò  quận lại như cái  dăm bông rồi thái mỏng từng khoanh nhỏ  điểm vào với  thịt). Phở Nhà  thương Phủ Doãn ăn được nhưng nước hơi nhạt;  phở Đông  Mỹ ở phố Mới ăn  êm, nhưng tẩy gừng hơi quá tay; phở Cống Vọng,  kéo xe,  ngon, nhưng nước  dùng hơi hôi; phở Mũ Đỏ ở đằng sau miếu chợ  Hôm vô  thưởng vô phạt, ăn  khá, nhưng chưa có gì quyến rũ.(12)
Tại  Sài gòn, trước 1945, Phở chiếm vị trí khiêm tốn.Theo  nhà văn Tô Hoài, ở  Sài Gòn  năm   1940 chỉ có hai chỗ bán phở Bắc. Một ở  hẻm đường  Espagne tức là  đường  Lê  Thánh Tôn hiện nay và một ở chợ cũ  (khu vực  Hàm Nghi).  Đến   năm 1950 nghĩa là 10 năm sau, phở Bắc  chỉ phát triển  thêm mỗi một   tiệm  ở đường La Grandière (Lý Tự Trọng) .
Sau  1954, dân Bắc di cư vào  Nam và cũng mang Phở vào Nam. Trong khi ngoài  Bắc, dân chúng dưới ngọn  cờ máu, phải ăn Phở  Quốc Doanh, do đảng tài  tình lãnh đạo cho nên đã  phát sinh ra lối "Phở không người lái" thì  trong Nam, Phở có thịt đầy  đủ, có nhiều loại tùy thích mà lựa chọn như  thịt bò chín , thịt bò tái, sụn, nạm, đuôi bò, gân, ngẫu pín,  phở gà,  phở bò gà... Vì Phở bây giờ đi vào vương quốc " giá sống", nhập gia tùy  tục, phở có thêm món rau phong phú như giá, rau húng, ngò gai...
Nay  Băc Nam thống nhất, mỗi ngày người Việt Nam sang Mỹ và từ Mỹ đi về Việt  Nam có hàng trăm, hàng ngàn. Ở Việt Nam qua Mỹ thích ăn tô đại thì ăn,  nếu không ăn tô trung cũng no và ngon lắm.  Nếu ai chê thức ăn ở đây dở  hơn Việt Nam thì mai mốt về Việt Nam ăn thả giàn. Ai không thích ăn rau,  ăn giá thì được thôi, nhưng người trong Nam ra Bắc mà đòi húng giá thì  coi chừng bị tạt nước vào mặt. Phở ,chả giò Việt Nam nay trở thành món  ăn ngon cho người Âu Mỹ.
Ngày xưa VNCH, lương công chức  hạng thấp nhất ba ngàn , tốt nghiệp đại học 7 ngàn, thì tô phở 79 ở  đường Võ Tánh  Saigòn chỉ có ba đồng, sau 1963, tô phở lên 5 đồng, còn  gói xôi 50 xu, tạ gạo khoảng 150-200 đồng.  Nay tô phở hải ngoại  chia  ba hạng đại trung tiểu. Tô đại to như cái chậu. Đa số thanh niên  chỉ ăn  tô trung mà đã nghẹt thở.
Phở hải ngoại giá từ 3 đô đến 5 đô,   nhiều thịt, nhiều bánh và không bột ngọt.  Trong khi tại Việt Nam, khách  ăn phở còn đòi thêm một trứng gà, hai trứng gà, hoặc xin thêm nước béo,  nhưng ở hải ngoại, nhà hàng cũng như các bà nội trợ đã loại bỏ không  thương tiếc những miếng mỡ gà, mỡ bò vàng ngậy!Đa số Phở  tại Việt Nam  bây giờ it thịt,  it bánh, ăn một tô không đủ no.
Tại Hà Nội, thực khách còn nghe âm thanh đặc thù Hà Nội XHCN đó là phở chửi, phở mắng, phở quát, phở tháo...
Ca dao ta có câu:
Chẳng thanh cũng thể hoa nhài,
Dẫu rằng chẳng lịch cũng người Tràng An!
Đó  là nói người Tràng An xưa kia. Những cô gái Hàng Đào, Hàng Vàng, Hàng  Bạc, những tiến sĩ, cử nhân, những thương gia, văn nghệ sĩ ưu tú đã bỏ  vào Nam, rồi sau đó chạy qua Pháp Mỹ  còn đâu nữa. Một số tài tử giai  nhân Tràng An đã chết vì Việt Minh và Pháp tàn sát trong 1945-1946. Một  số tinh hoa 36 phố phường đã nằm trong trại tù hoặc khu kinh tế mới để  cán bộ đảng có nhà cửa mà công tác và du hí! Đất Thăng Long bây giờ  không còn người ThăngLong xưa nữa. Vũ Ngọc Phan đã đau đớn nhận ra điều  này:
Về  sau, người Hà Nội cũng không còn là người Hà Nội chính cống nữa mà là  người tứ chiếng đến; có những người mới đến ở được bảy tám năm, muơi năm  đến buôn bán kinh doanh đem những lề thói không Hà Nội đến Hà Nội làm  cho Hà Nội cũng gần như các nơi khác. (sđd, 54)
Ai  là người tứ chiếng đến quấy phá Hà Nội? Ai nữa!  Sờ sờ ra đó mấy chục  năm nào là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Tố Hữu.. .Đó là do chủ  nghĩa cộng sản và con người vô sản, vô học, hung ác, lưu manh tạo ra một  xã hội như vậy. Trách sao được! con người mới XHCN này hiện diện khắp  nơi. Trong HTX, trong cửa hàng, trong cơ quan, ngoài đường phố.. .
Con  người Hà NỘi mới, con người XHCN miền Bắc bây giờ mặt sưng mày sỉa,  chửi thề luôn miệng, quát nạt khách hàng không ngưng nghỉ. Nếu Đảng Cộng  Sản chọn Quốc huy nên chọn cây xương rồng là hơp nhất.
Hà Nội tô  phở bây giờ có nhiều giá biểu, có thể trả bằng VND hoăc  bằng $US  .Chung chung phở Việt Nam du di từ 15 ngàn đồng  đến 50 ngàn Việt Nam  cho đại chúng. Còn có quán phở cao cấp của tư sản đỏ:
- Phở bò Kobe gyu ‘5’ giá 750.000 đồng/bát
- Phở bò Kobe ‘M’ giá 500.000 đồng/bát.
- Phở bò Wagyu Úc giá 220.000
-Phở bò Mỹ giá 125.000 đồng/bát.
- Phở bò Úc ‘S’ giá 85.000 đồng/bát
- Phở nạm bò Mỹ giá 70.000 đồng/bát.
Thật là sang trọng, huy hoắc hơn tư bản nhiều!
Ai bảo cộng sản là khổ?
Không cộng sản sướng lắm chứ!
__________
Chú thích
(1).     Tản Đà . Tản Đà Tản Văn. Hương Sơn, Hà Nội, 1942. Đánh bạc, bài 21,     tr.86.Trong tập này, một số bài đã đăng ở Đông Dương tạp chí.  Phạm     Quỳnh đề tựa 1918, Tản Đà Thư Cục đề tựa 1932.(2).Technique     du peuple Annamite - Kỹ Thuật Của Người An Nam. Bản dịch tiếng Anh:     Sheppard Ferguson. Bản dịch tiếng Việt: Trần Đình Bình.NXB Thế Giới,  2009.
Tác    phẩm Technique du peuple Annamite - Kỹ Thuật Của Người An Nam của     Henri Oger là một công trình nghiên cứu hoàn toàn mới về văn minh vật     chất của Việt Nam đầu thế kỷ XX. gồm  700 trang với 4,200 bức  họa  theo nghệ thuật Việt Nam, có ghi chú bằng chữ nôm, và được thư viện   đánh số thứ tự các hình và các trang. Trong   hai năm 1908 - 1909, tác giả đã   cùng một họa sĩ người Việt đi khắp   các phố phường Hà Nội cũng như vùng   ngoại thành nhằm thống kê và tìm   hiểu rõ sự đa dạng vô cùng của các   ngành công thương nghiệp phổ biến ở   đây.
(3).Lê Quốc Thanh. Trăm năm phở Việt. 20-5-2009.
http://my.opera.com/phopo/blog/show.dml/3269900
(4). Nguyễn Công Hoan. Nhớ và ghi về Hà  Nội, NXB Trẻ 2004. 
(5).Trịnh Quang Dũng. Nguồn gốc món Phở.
http://nguoivietdatsing.com/index.php?option=com_content&task=view&id=322&Itemid=115
(6). Vũ Ngọc Phan. Những Năm Tháng Ấy. Văn Học, Hà Nội, 1987, tr. 72.
(7). Nguyễn Dư.Phở, Phởn, Phịa. 2-2001.
http://www.vietlove.com/board/lofiversion/index.php/t59030.html
(8).Alain  Guillemin.Sự tích món Phở Việt Nam. Ngô Tự Lập dịch.Ngày 13-2-2010.
http://vn.360plus.yahoo.com/ngotulap/article?mid=200(9).Tô Hoài. Chuyện Cũ Hà Nội. NXB Hà Nội, 1986, số14. Tiếng rao đêm.
(10). Vũ Bằng. Miếng Ngon Hà Nội. Nam Chi Tùng Thư, Saigon,1960. Phở
(Xin xem tiếp phần II là Phụ Lục)