Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

11 loại rau thơm có tác dụng chữa bệnh

 - Tía tô, kinh giới có thể chữa cảm lạnh, húng lủi, húng quế có tác dụng kích thích tiêu hóa, dấp cá hỗ trợ trị ho, long đờm... Mỗi loại rau thơm đều có thể là một vị thuốc hữu ích nếu chúng ta biết cách sử dụng đúng.
Húng quế: Là một loại gia vị quen thuộc trong gia đình, nhưng húng quế đồng thời cũng là loại thảo dược tốt cho gan, ổn định lượng đường trong máu và có tính kháng khuẩn.
Cạnh đó, húng quế còn là loại húng chứa nhiều tinh dầu chứa các vitamin và chất khoáng, nhất là magie rất tốt cho cơ bắp, tim mạch. Tinh dầu này cũng có chất chống oxy hóa mạnh có thể làm chậm quá trình lão hóa, phòng chống ung thư. Tinh dầu chưng cất từ húng quế được nhiều spa sử dụng trong dưỡng da, làm đẹp da, trị mụn trứng cá và bệnh vảy nến.

Húng lủi: Cũng là một loài thuộc họ húng, trong húng lủi có nhiều tinh dầu, đặc biệt là loại tinh dầu có tác dụng kích thích tiêu hóa, thư giãn. Chỉ cần bỏ vài lá húng lủi vào ly nước trà hoặc ly nước nóng, bồn tắm, tinh dầu sẽ làm bạn sảng khoái.
Húng lủi theo nghiên cứu của y học hiện đại cũng có khả năng phòng chống ung thư do trong thành phần có chứa perillyl. Nước ép húng lủi cũng là loại nước làm đẹp da tuyệt hảo.

Thìa là: Rau thìa là và hạt của nó được dùng làm gia vị rất phổ biến. Trong thành phần của chúng có nhiều khoáng chất và vitamin như C, B3, mangan, chất xơ, kali, canxi, magie, sắt và các kích thích tố nhữ như fenchone, caretenoids, flavonoid, anethole và camphene..
Hạt thì là được sử dụng để trị đầy hơi, khó tiêu, tăng huyết áp, tăng sữa cho sản phụ sau sinh, tăng ham muốn tình dục… Một vài cọng rau thìa là gia giảm vào món ăn sẽ giúp bạn ngon miệng, dễ tiêu. Tuy nhiên không nên dùng hạt thìa là với lượng lớn vì nó có thể gây ảo giác, co giật.

Tía tô: Được đánh giá là có hương vị của sự pha trộn giữa hồi hương, cam thảo, quế và bạc hà sát khuẩn, tía tô là loại rau thơm được dùng rất rộng rãi. Tía tô có tác dụng giải cảm, hạ sốt, trị mụn. Khi bụng bị đầy hơi, bạn dùng lá tía tô giã nhỏ hòa với nước sạch, uống một lần là khỏi. Trong trường hợp bị nôn mửa, đau bụng do trúng thực, cũng có thể dùng cách này.
Nếu bị cảm lạnh, một tô cháo nóng có lá tía tô xắt nhỏ (thêm hành lá nếu muốn) cũng sẽ giúp bạn toát mồ hôi, sớm khỏi bệnh.

Kinh giới: Theo Đông y, kinh giới có vị cay, tính ấm, tác dụng làm ra mồ hôi, lợi tiểu, chữa cảm gióa, dị ứng, cầm huyết. Nếu bị cảm, bạn có thể dùng cây kinh giới nấu nước xông hoặc uống. Bị mẩn ngứa, mề đay,cũng có thể khắc phục bằng tắm nước lá cây kinh giới nấu kỹ.

Rau mùi (ngò rí): Loại rau này có rất nhiều công dụng, hạt của nó cũng vậy. Bị cảm cúm, nhức đầu, sổ mũi, bạn sắc 100 gam hạt mùi uống ngày hai lần đến khi khỏi. Để trị tiêu chảy có máu, dùng hạt mùi sao thơm tán nhỏ, pha với nước sôi mỗi lần 7 gam, uống ngày 2 lần sẽ sớm dứt.
Ăn rau mùi, hoặc cầu kỳ hơn là uống nước ép lá mùi sẽ giúp hạ cholesterol trong máu, bổ sung cho cơ thể một lượng lớn vitamin như vitamin A, B1, C, B2, sắt. Rau mùi cũng có tác dụng giúp long đờm, chữa rối loạn tiêu hóa.

Ngò gai (mùi tây): Toàn cây ngò gai đều có tinh dầu, ngò gai có nhiều protid, glucid, cellulose, canxi, photpho, sắt và vitamin C, B1… Ngò gai có tác dụng trị hôi miệng, chữa đầy hơi chướng bụng, cảm cúm, tè dầm ở trẻ nhỏ.
Với bà bầu hoặc phụ nữ trung tuổi, tắm bằng nước nấu từ cây ngò gai tuần 2-3 lần cũng hạn chế được thâm nám da cũng như mụn bọc mà cơ thể lúc nào cũng có mùi thơm mát.
Sả: Là loại gia vị rất thơm, sả có nhiều lợi ích như giảm đau, thư giãn hệ thần kinh, giải độc, giảm huyết áp khá hiệu quả. Trong sả có chứa các chất flavonoid khác nhau hoạt động như những chất oxy hoá giúp ngăn ngừa một số loại ung thư. Theo một nghiên cứu vào tháng 8 năm 2012 của tạp chí khoa học Châu Âu thì chất flavonoid có trong sả được gọi là luteolin có khả năng đẩy lùi sự phát triển của một số tế bào ung thư.
Rau răm: Theo đông y, rau răm có vị cay nồng, mùi thơm hắc, tính ấm. Rau răm khi ăn sống thì ấm bụng, tiêu thực, kích thích tiêu hóa, sát trùng, tán hàn. Rau răm làm sáng mắt, ích trí, mạnh gân cốt, trị co gân (chuột rút), chữa dạ dày lạnh, đầy hơi, đau bụng, kém ăn, tiêu chảy. Nhờ có vị cay, tính ấm, tiêu thực, kích thích tiêu hóa nên rau răm thường được dùng ăn cùng trứng vịt lộn, thịt bò, thịt gà, cháo trai, hến để giúp ngon miệng, làm ấm tì vị. Tuy nhiên, không nên ăn nhiều rau răm vì sẽ làm giảm tinh khí, thương tổn đến tủy, suy yếu tình dục ở cả đàn ông lẫn phụ nữ.
Dấp cá: Dấp cá vị cay, tính lạnh, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hạ sốt, lợi tiểu, sát trùng. Dấp cá được sử dụng như một loại rau gia vị giúp kích thích tiêu hóa, tạo cảm giác ngon miệng nhờ tăng thêm mùi vị cho thức ăn.
Dấp cá tính mát, nhờ đó mà nó có tác dụng hạ sốt, chữa táo bón. Tác dụng tiêu viêm của cây dấp cá có thể trị được mụn nhọt, viêm tai giữa, viêm họng, và viêm phế quản.

Húng chanh: Theo y học cổ truyền, húng chanh có vị cay, tính ấm mùi thơm, có tác dụng phát tán phong hàn, tiêu đờm, sát khuẩn, có tác dụng chữa viêm họng, giải cảm, cho ra mồ hôi và chữa ho, chữa cảm cúm, sốt không ra mồ hôi được,… Trong nhân dân thường dùng lá húng chanh tươi hoặc sắc uống. Ngoài ra các cơ sở sản xuất thuốc Nam cũng thường chưng cất tinh dầu húng chanh kết hợp với một số thảo dược khác để sản xuất thuốc trị ho, cảm cúm.






Nguy hiểm cần biết khi ăn cua đồng

- Cua đồng là món ăn ngon, giàu dinh dưỡng, nhiều can xi, rất tốt cho sức khỏe. Cứ trong 100g thịt cua đồng chứa 12,3% protit; 3,3% lipit; 5.040mg% canxi; 430mg% phốt pho...
Ngoài ra còn có 4,7mg% Fe; 0,01mg% vitamin B1... 0,51mg% vitamin B2; 2,1mg% vitamin PP; 0,12mg% vitamin B6; 125mg% cholesterol; 0,25mg% melatonin...
Mặc dù thịt cua đồng có nhiều chất dinh dưỡng như vậy, nhưng nếu không cẩn thận khi ăn cũng sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng. Dưới đây là một vài kinh nghiệm bạn cần nhớ.

 Cua đồng là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, tốt cho sức khỏe. Hình minh họa.
Ai không được ăn cua?
Phụ nữ mang bầu
Mẹ bầu- nhất là trong thời gian ba tháng đầu thai kỳ-không nên ăn cua đồng do cua đồng có tác dụng phá khối u, tống xuất khối cục tồn đọng trong cơ thể. Mẹ bầu ăn cua đồng nhiều dễ gây sảy thai.
Người mới khỏi bệnh
Những người mới khỏe lại sau bệnh, đường tiêu hóa còn yếu cũng chưa vội ăn cua đồng vì dễ bị lạnh bụng.
Người bị tiêu chảy
Khi đang bị tiêu chảy, tuyệt đối không được ăn các món ăn chế biến từ cua đồng. Cua đồng có tính hàn, lạnh, vì có thể khiến người đang bệnh lại bị bệnh nặng thêm.
Người bệnh tim mạch

 Gạch cua có nhiều cholesterol nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch nên hạn chế ăn. Hình minh họa.
Gạch cua có chứa nhiều cholesterol, trong 100 gam thịt cua cũng có đến 125mg% cholesterol nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch cần hạn chế ăn cua.
Người bị gút
Cua đồng cũng chứa nhiều sodium và purines nên không thích hợp cho người bị bệnh gút.
Người bị hen
Những người đang bị ho hen, cảm cúm không được ăn cua.
Không ăn cua khi…
Cua đã chết
Khi cua đã chết, trong cơ thể cua có nhiều thành phần hóa học mang tên histidine (có công thức phân tử C3H3N2CH2 (NH2)CO2H), khiến người ăn dễ bị ngộ độc, đau bụng, nôn mửa. Cua càng chết lâu thì lượng histamine càng nhiều, càng dễ ngộ độc hơn.
Cua nấu chín nhưng để lâu

 Cua đã chế biến không nên để lâu vì dễ gây ngộ độc. Hình minh họa.
Cua đã luộc, nấu chín nhưng để lâu rất dễ bị ôi thiu, nhiễm khuẩn. Do đó, cua chế biến đến đâu nên ăn hết tới đó.
Cua còn sống
Nhiều  người truyền miệng, cua đồng rửa sạch, giã lấy nước cốt uống khi cua còn sống sẽ giúp cơ thể dẻo dai, mạnh xương cốt. Điều này hoàn toàn sai lầm. Sự thật là trong thịt cua còn sống có chứa nang trùng “lungfluke” (đỉa phổi). Nếu không qua nấu chín mà ăn như vậy rất dễ bị đỉa phổi xâm nhập vào phổi, lên não dẫn tới ho ra máu, co giật, bại liệt.
Ăn cua kèm quả hồng

Chất tannin chứa trong quả hồng sẽ kết hợp với protein trong thịt cua, sẽ gây nên các triệu chứng như lợm giọng, nôn ói, đau bụng, tiêu chảy vv…Do đó không ăn cua kèm với quả hồng.

Quý ông lên biên giới Campuchia săn của độc, hàng lạ


Cách biên giới Campuchia khoảng 2 km, cánh mày râu không khó để tìm nhện hùm, bọ cạp, mối chúa... được cho là hàng độc giúp "chồng ăn vợ khen".
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Tắc kè được cư dân vùng biên giới săn lùng trong các hốc núi, cây rừng ở huyện Tịnh Biên (An Giang) hay tỉnh Tà Keo, Kan Đal (Campuchia) rồi mang sang thị trấn Tịnh Biên cung cấp cho cánh đàn ông có nhu cầu tráng dương bổ thận.
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Tắc kè được Đông y xếp vào loại thuốc bổ dương vì nó có vị mặn, tính ấm, quy vào các kinh phế và thận, có công năng bổ thận, tráng dương, ích tinh tủy, dùng trong các trường hợp ù tai do thận khí kém, liệt dương, di tinh, tiết tinh sớm... Tắc kè thường được ngâm rượu với hà thủ ô đỏ, ba kích, nhục thung dung, đẳng sâm, huyết giác...
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Khách du lịch đến An Giang thường lùng kiếm tắc kè bay ở núi Cấm hay vùng biên giới Tịnh Biên. Nhiều người cho rằng tắc kè bình thường đã bổ thì loại tắc kè có cánh biết bay bổ gấp bội lần, trị được bách bệnh. Tuy nhiên, chưa thấy sách Đông y nào ghi rõ công dụng.
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Bọ cạp vùng biên giới An Giang là loài có đốt, thường sống ở dưới những hòn đá hoặc khe vách. Đầu và ngực bọ cạp vùng này ngắn, bụng tương đối dài hơn, phía dưới bụng thót lại, cuối cùng là ngòi mang nọc độc. Cánh đàn ông cho rằng bọ cạp nướng ăn là "sung dược" nhưng trong Ðông y loài này được dùng làm thuốc trấn kinh, chữa trẻ em kinh phong, uốn ván...
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Đến biên giới Tịnh Biên khách du lịch háo hức muốn tận mắt chứng kiến những loài côn trùng, động vật mà trước giờ chưa từng thấy.
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Trong đó có nhện hùm là loài nhện độc khổng lồ sống ở một số khu rừng.
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Không chỉ có hình thù đáng sợ, con vật này còn được truyền tụng trong dân nhậu như một thứ biệt dược "chồng uống vợ khen" khi ngâm với rượu. Tuy nhiên, nhiều ý kiến khẳng định rằng nhện hùm chỉ có công dụng chữa bệnh trẻ em đái dầm.
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Mối chúa trắng nõn, to bằng ngón tay cũng được xếp vào danh sách "sung dược" phục vụ quý ông. Trước đây cư dân biên giới mỗi ngày săn lùng được hàng chục con mối chúa nhưng nay một người đi tìm cả ngày chỉ đào bắt được 2-3 con. Mối chúa có vai trò sinh sản, được xem là món ăn có nhiều đạm, bổ cho những người yếu thận, tăng cường sinh lực, giúp khí huyết lưu thông.
côn-trùng, Campuchia, rắn, rết, đuông-dừa,
Rết sống dài gần bằng gang tay người lớn bắt trong các khu vườn rậm vùng biên giới giáp ranh Campuchia được bày nhiều ở chợ thị trấn Tịnh Biên. Một chủ hàng cho biết, khách du lịch đến vùng đất này hay chọn mua "hàng độc" mỗi thứ một con gồm rết, nhện hùm, mối chúa, thằn lằn và bọ cạp để nướng ăn. Trong dân gian, rết được ngâm rượu hoặc phơi khô rồi nướng, tán nhuyễn dùng làm thuốc trong những trường chữa mụn nhọt, sưng đỏ, đau nhức... 

Vén màn chuyện ăn uống của các giáo hoàng

Đầu bếp David Geisser vừa cho ra mắt tập sách tiết lộ về những món ăn ưa thích của các yếu nhân tại Vatican.

 Giáo hoàng Francis xếp hàng lấy đồ ăn - Ảnh: Osservatore Romano
Giáo hoàng Francis xếp hàng lấy đồ ăn - Ảnh: Osservatore Romano
Tác giả tập sách là một trong những đầu bếp chính ở nhà nghỉ Sanctæ Marthæ, nơi ở của Giáo hoàng Francis kể từ khi được bầu chọn làm người đứng đầu Giáo hội Công giáo vào tháng 3.2013.
Theo trang tin Aleteia, Geisser (24 tuổi) là người ở bang Zurich, Thụy Sĩ. Năm 18 tuổi, anh này đã nổi tiếng với cuốn sách 80 thực đơn trên thế giới và là gương mặt quen thuộc ở các chương trình ẩm thực của nhiều kênh truyền hình. Tập sách vừa ra mắt có tên Buon appetito, Guardia Svizzera (tạm dịch: Chúc ngon miệng, lính gác Thụy Sĩ) đã giúp vén màn phần nào một trong những điều luôn gây tò mò cho công chúng nhưng lâu nay thường được giữ kín trong các bức tường của giáo triều.
Buon appetito, Guardia Svizzera cho thấy các vị giáo hoàng luôn dành tình cảm đặc biệt đối với những món ăn truyền thống của quê nhà. Theo đó, Giáo hoàng John-Paul II rất thích pierogi, một món ăn truyền thống của Ba Lan, có hình thức khá giống sủi cảo với nhiều loại nhân khác nhau và được đút lò. “Sau khi bị bắn trong vụ ám sát hụt ở quảng trường Thánh Peter năm 1981, Đức Thánh Cha (ý chỉ Giáo hoàng John-Paul II - NV) đã yêu cầu được ăn pierogi trong bệnh viện. Món đó giúp ông cảm thấy nhớ về quê hương và tĩnh tâm phần nào”, Geisser viết.
Món “ruột” của Giáo hoàng danh dự Benedict XVI cũng mang đậm hương vị quê nhà Bavaria (Đức) của ông: xúc xích Würstel và thịt heo rô ti. Tương tự, một số món nổi tiếng của Argentina và khu vực châu Mỹ La tinh đã cùng Giáo hoàng Francis đến Vatican: dulche di leche (món tráng miệng làm từ đường và sữa), colita de cuadril (thăn bò nướng hoặc áp chảo), empanadas (bánh nhân thịt, trứng, khoai tây đút lò). Trong đó, dulche di leche được giáo hoàng đương nhiệm rất ưa thích.
Ngoài ra, sách cũng đề cập khá kỹ những món “khoái khẩu” của các nhân vật cấp cao khác tại Vatican như Thủ tướng tòa thánh Pietro Parolin thích bánh bao nhân khoai tây, còn Tổng giám mục Georg Gänswein, thư ký riêng của các giáo hoàng Benedict XVI và Francis, lại mê thịt xông khói nấu cùng thịt bê, vang trắng và bơ.  
Không quá 10 euro
Ngoài một số món ăn phổ biến của Argentina thỉnh thoảng được đưa vào thực đơn, bữa ăn hằng ngày của Giáo hoàng Francis rất giản dị. Theo Aleteia, Giáo hoàng Francis thường dùng bữa ở nhà ăn chung như mọi người. Một nhà báo tường thuật rằng ông từng thấy giáo hoàng dùng bữa tại đây với các món nui xoắn macaroni, bò nấu đậu, ớt chuông chiên, cuối bữa có thêm cà phê hoặc sữa. Bữa ăn “chất lượng tàm tạm” này có giá dưới 10 euro, tức rất bình dân so với giá cả ở Rome hay những thành phố lớn khác của châu Âu.
Ngoài ra, thỉnh thoảng Giáo hoàng Francis còn gây bất ngờ khi đến ăn tại một số căn tin trong Vatican. Theo tờ Osservatore Romano, hồi cuối tháng 7, những người có mặt tại nhà ăn của khu vực kỹ thuật tại thành quốc này đã vô cùng bất ngờ khi thấy ông cùng một cộng sự cầm khay xếp hàng đợi mua đồ ăn. Sau đó, ông mang khay đến ăn cùng bàn với 5 nhân viên của nhà thuốc Vatican, vui vẻ hỏi thăm công việc của họ rồi trò chuyện về kinh tế và... bóng đá. Hồi năm ngoái, Giáo hoàng Francis cũng từng đến căn tin để ăn chung với một nhóm thợ rèn, thợ sửa ống nước và thợ điện của tòa thánh. 

Tự học làm giá đỗ vì...sợ hóa chất

 - Nhiều bà mẹ sợ giá đỗ mua ngoài chợ ngâm hóa chất nên đã tự học cách làm giá đỗ tại nhà. Giá đỗ tự làm không hóa chất, không đẹp mắt nhưng dùng an toàn, bổ dưỡng.

Tự làm giá đỗ an toàn cho sức khỏe

Giá đỗ tự làm không đẹp bằng mua ngoài chợ nhưng an toàn với người dùng. Ảnh minh họa

Giá đỗ hay còn gọi là giá, giá đậu… là hạt đậu nảy mầm, dài từ 3 đến 7cm. Giá đỗ thường được ủ cho nảy mầm từ hạt đậu xanh, cũng có giá đỗ từ đậu tương. Giá đỗ là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Giá đỗ giàu vitamin đặc biệt là vitamin C, khoáng chất, protein và chất có nguồn gốc thực vật, những chất cần để mầm cây phát triển, cũng là các chất bổ dưỡng cho con người.
Các loại thuốc ủ giá đỗ vừa được phát hiện tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vừa qua chưa được phép sử dụng tại Việt Nam. Người làm giá sử dụng các chất này để giá đỗ chóng nảy mầm, thân mập mạp, ít rễ.
Thành viên Mẹ Chích Bông chia sẻ trên trang eva.vn: “Dù đã được trang bị rất nhiều kiến thức, tuy nhiên có lẽ những bậc làm mẹ như chúng ta càng đọc sẽ chỉ càng thêm lo. Mỗi lần ra chợ, cầm mớ rau, thức quả lên tay định mua, em lại cứ mãi chần chừ vì không biết những thực phẩm này liệu có thực sự sạch hay không? Giải pháp tốt nhất em hướng đến bây giờ có lẽ chỉ là cố gắng tự tay làm những loại thực phẩm 'home - made" cho con”.
Thành viên này còn hướng dẫn làm giá đỗ rất đơn giản bằng những chiếc rổ cùng những chiếc khăn cũ mỏng. Đỗ sau khi rửa sạch và ngâm từ 6 – 8 tiếng cho no nước có thể dùng làm giá. Trải một lớp khăn lên rổ, rải đều đỗ trên mặt khăn, không dày quá. Cứ tiếp tục trải một lớp khăn và một lớp đỗ cho đến khi hết đỗ.
Trên cùng, trải một lớp khăn. “Cất vào chỗ thoáng mát và tránh ánh sáng mặt trời. Mỗi ngày, đêm mang rổ đậu ra tưới nước một lần. Sau khi tưới nước vào chậu ngâm giá, mẹ nhớ phải để giá thật ráo nước mới đặt trở lại vào chậu nhé, kẻo giá sẽ bị úng nước và chết” – Mẹ Chích Bông chia sẻ.
Làm giá đỗ bằng lá tre và nước lã

Làm giá đỗ ngon bằng ủ lá tre và tưới nước lã. Ảnh minh họa

Chị Bùi Thị Hường, khu chung cư Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội chia sẻ kinh nghiệm làm giá đỗ bằng chai nhựa được tận dụng: Sau khi ngâm 8 tiếng, đỗ xanh được cho vào chai nhựa. Một chai nước ngọt bỏ đi khoảng 1,5 lít tương ứng với 200 gam đỗ xanh, đục các lỗ nhỏ để chai có khả năng thoát nước. Khoảng 4 tiếng, nhúng chai vào nước, sau đó để ráo. Cứ liên tục trong vòng 2 – 3 ngày là có thể ăn. Khi muốn lấy đỗ ra ngoài, chỉ cần cắt ngang chai nhựa.
Gia đình chị Nguyễn Thị Vỵ, thôn Yên Xuyên, xã Phú Thịnh, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc có nghề làm giá đỗ truyền thống đã hơn 20 năm. Với cách làm này, chị Vỵ khuyên nên dùng nồi đất là tốt nhất, trường hợp không có nồi đất, có thể dùng chõ đồ xôi bằng nhôm.
Theo chị Vỵ, làm giá bằng phương pháp truyền thống trải qua nhiều công đoạn hơn so với làm giá hiện nay. Tuy nhiên, giá thành phẩm ăn có vị ngọt tự nhiên, mầm giá mập mạp hơn.
Chị Vỵ cũng giải thích nên dùng lá tre trong quá trình làm giá vì đây là loại lá chịu được nước, lại thoát nước dễ dàng. Trường hợp không có lá tre, nên chọn loại lá cũng có khả năng chịu được nước.
Cách làm như sau: Đỗ xanh ngâm từ 6 đến 8 tiếng. Sau đó, vớt đỗ ra và để ráo nước. Trải một lớp lá tre xuống bên dưới nồi đất rồi trải đỗ lên bên trên. Tiếp tục trải một lớp lá tre và một lớp đỗ cho đến khi hết đỗ. Chú ý, lớp lá tre ở bên dưới và trên cùng cần trải dày. Sau khi trải lớp lá tre trên bề mặt nồi đất, lấy những thanh tre gài chặt miệng nồi đất. Cần chú ý, không gài quá chặt, tạo điều kiện cho giá có thể nảy mầm. Cứ 4 tiếng, cho giá “uống nước” một lần trong ngày. Mỗi lần cho giá “uống nước” khoảng 15 phút, sau đó ngiêng chiếc nồi đất cho ráo nước. Chú ý, nên để giá ở nơi tránh ánh sáng để giá có màu trắng và thẳng. Để có được nồi giá thành phẩm vào mùa hè là từ 5 đến 6 ngày, và 7 đến 8 ngày vào mùa đông.
“Rau giá muốn ngon thì phải cẩn thận từ khâu chọn đỗ, đỗ xanh hạt phải đều, không có sâu vì nếu một hạt đỗ hỏng sẽ làm hỏng lây cả nồi giá. Nước để làm giá phải được lọc qua cát để mầm giá được trắng và rễ không bị đen. Về mùa đông khi nhiệt độ xuống thấp phải thắp đèn và ủ ấm cho giá”. – chị Vỵ chia sẻ.

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

Điều gì tạo nên món ăn ngon?

Gia vị là một chìa khóa quan trọng trong chế biến món ăn, bởi lẽ nếu thiếu gia vị thì rất khó để có thể tạo ra được món ăn ngon.
Một trong số những gia vị được sử dụng phổ biến, lâu đời tại Việt Nam và có vai trò chủ đạo làm cho món ăn ngon hơn, đó chính là bột ngọt.
Bản chất của bột ngọt là glutamate, một loại axít amin tồn tại phổ biến trong rất nhiều loại thực phẩm như thịt, hải sản, sữa, rau củ,… Loại gia vị có lịch sử hơn 100 năm này đã được phát minh khi giáo sư Kikunae Ikeda khám phá ra glutamate là yếu tố tạo nên vị umami hay còn gọi là vị ngọt thịt (vị ngọt đến từ nguồn đạm của thực phẩm).
Ngày nay, bột ngọt được sản xuất bằng phương pháp lên men từ nguyên liệu giàu bột đường như mía, khoai mì, củ cải đường…và là cách thức đơn giản mà hiệu quả mang lại vị ngon cho món ăn. Ngoài ra, một đặc tính thú vị khác của bột ngọt là có thể giúp hài hoà hơn nữa các vị trong món ăn, chẳng hạn như vị mặn. Việc sử dụng muối và bột ngọt với một tỉ lệ thích hợp vừa giúp giảm một phần lượng muối sử dụng mà vẫn giữ nguyên được vị ngon của món ăn. Ví dụ, để nấu 1 chén canh ngon (khoảng 200 ml) có thể nêm khoảng 1 muỗng yaourt bột ngọt và 1- 1,5 muỗng yaourt muối. Như vậy, việc nêm bột ngọt phần nào giúp chúng ta vừa được ăn ngon mà vẫn giảm muối trong khẩu phần, điều cần thiết để bảo vệ sức khỏe tim mạch, thận.

Với những ưu điểm này, bột ngọt đã được sử dụng phổ biến rộng rãi tại hơn 100 quốc gia trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, bột ngọt là gia vị được sử dụng phổ biến trong chế biến món ăn tại gia đình cũng như trong công nghiệp chế biến thực phẩm.

Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014

RAU RỪNG






  1. lá rau bépLá rau bép hay còn gọi là rau nhíp, rau ranh, đã được đồng bào dân tộc K’Ho  giới thiệu cùng bạn bè người Kinh, nếu chúng ta có dịp ngang qua huyện Di Linh – Lâm Đồng.
    Lá rau bép có hình dạng, kích thước gần giống với lá chôm chôm, lá nhãn. Hợp với đất đỏ bazan, hấp thụ dưỡng chất từ đất đỏ bazan cùng khí trời trong lành từ thiên nhiên vùng cao, nên lá rau bép có vị ngọt thanh, thơm nhẹ. Nhai một ngọn rau xanh non sẽ lưu lại vị ngọt nơi đầu lưỡi, cho nên cũng có người K’Ho giành cho loại lá này một cái tên thân mật nữa – lá bột mì chính (bột ngọt).
    Lá rau bép non có màu đỏ gạch, thêm chút tuổi nữa là màu vàng nhạt, rồi tới màu xanh non, già hơn nữa là màu xanh đậm, là loại rau từ thiên nhiên mọc quanh năm,  sau khoảng 5-6 trận mưa đầu mùa là thời điểm lá bép ngon nhất. Đồng bào dân tộc tranh thủ vào rừng hái, đây là lúc lá cho vị ngọt hơn tất cả mọi thời điểm.

    Lá rau bép vừa có giá trị dinh dưỡng vừa có dược tính cao

    - Trong lá rau bép có tới 16 loại Aminoacid (trong số 20 Aminoacid quan trọng không thể thiếu đối với con người) tham gia xây dựng Protein nhằm đảm bảo các chức năng xúc tác, miễn dịch, vận chuyển… cho các hoạt động sống hàng ngày của cơ thể.
    - Qua phân tích tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, thành phần cũng như hàm lượng các chất khoáng trong lá rau bép khá cao, trong đó K, Fe, Cu, Zn, Mo, Mg và Mn cao hơn nhiều so với xà lách, bông cải trắng…
    - Hàm lượng đường trong lá rau bét cũng đạt 0,93%, do vậy khi nấu canh có vị ngọt; đồng thời với hàm lượng đường khử 0,88% giúp cơ thể dễ hấp thụ nguồn năng lượng này một cách nhanh chóng.
    - Nhân hạt lá rau bép chứa khoảng 10,9% Protein, 1,6% lipid và 50,4% tinh bột – nguồn bổ sung quan trọng trong điều kiện thiếu lương thực.
    - Sinh trưởng và phát triển trong môi trường tự nhiên, không bón phân, phun thuốc trừ sâu nên lá rau bép hạn chế được các tác nhân gây ngộ độc như dư lượng nitrate, kim loại nặng…
    - Không chỉ ngon, đủ calo, an toàn, lá bép còn chứa các hoạt chất sinh học tự nhiên cần cho sức khỏe. Chất chiết xuất trong lá cây bép có chứa các chất kháng sinh có ích cho cơ thể.
  2.  rau dớn (dương xỉ)Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 3
  3. Đọt bí báiVũ điệu rau rừng - 5
  4. Đọt ChiếtVũ điệu rau rừng - 3
  5. Đọt choại
  6.  Lá cócVũ điệu rau rừng - 7
  7.  Lá Săng dẻVũ điệu rau rừng - 4
  8. Lá thuốc dòiVũ điệu rau rừng - 9
  9.  Quế vịVũ điệu rau rừng - 6Rau quế vị
  10. Sao nháiVũ điệu rau rừng - 8
  11. Rau sấn

  12. Cây rau sắng (rau ngót rừng)

  13. hay còn gọi là cây mì chính, cây rau ngót rừng, có tên khoa học làMelientha suavis thuộc họ Opiliaceae. Đây là một loại rau rừng thời chiến, và ngày nay là loại rau sạch đặc sản trong các nhà hàng, khách sạn.Cây rau sắng là cây bụi hay gỗ nhỏ, cao 4-8m. có lá mọc cách, hai mặt đều nhẵn, khi non  màu xanh sẫm, khi già màu xanh nhạt hơn, dày và giòn, vị lá ngọt đậm.
    Cây rau sắng trong tự nhiên ít mọc thành quần thể, chúng mọc cùng nhiều loài cây khác trong núi đá vôi và vùng đồi thấp, đặc biệt  không trồng được ở vùng trũng hoặc có mực nước ngầm cao. Rau sắng thường gặp ở một số tỉnh vùng núi miền Bắc và miền Trung, cây rau sắng được tìm thấy ở Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng ( Quảng Bình) và khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông ( Quảng Trị).
    Cây rau sắng phát lộc mạnh vào mùa xuân, hè; chậm về mùa thu; mùa đông ngừng sinh trưởng . Điều lạ là loài cây thân mộc này sinh trưởng được mùa này qua mùa khác nhờ vào những sườn núi đá vôi và lớp lớp mùn cây, lá rừng nhưng lại có thể bị bệnh mà chết nếu bị “ép” bón các loại phân hữu cơ. Vì thế mà rau sắng còn được mệnh danh là “loài rau thanh tịnh”.
    Rau sắng là món rau rừng ăn ngon và bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe. Những ai có dịp thăm viếng Chùa Hương những ngày đầu xuân, đặc sản rau sắng Chùa Hương hẳn sẽ là một trong những món quà không thể thiếu cho người thân, bạn bè.
    Cây Rau sắng ngày nay được coi là rau sạch, đưa vào các siêu thị như một thứ rau cao cấp, bán từng cân. Ngoài vị ngọt ngon, rau sắng quý vì hiếm vì một năm chỉ có trong vài tuần, cây sắng mọc cheo leo tận núi cao và cũng vì cả giai thoại của Thi sĩ Tản Đà :
     “Muốn ăn rau sắng chùa Hương
    Tiền đò ngại tốn con đường ngại xa
    Mình đi ta ở lại nhà
    Cái dưa thì khú cái cà thì thâm”
    cây rau sắng

  14. Tai voi
  15. Rau tàu bay ,loại rau rừng nổi danh  từ trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ, là nguồn cung cấp rau xanh sẵn có khắp nơi để ăn sống, muối dưa, luộc, xào, nấu canh… cho quân dân cả nước. Đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới vào những ngày đầu khai hoang cũng tìm đến loại rau này.

    Rau tàu bay còn gọi là cải trời, có tên khoa học là Gynura crepidioides Benth, thuộc họ Cúc (Asteraceae), thường mọc ở khu vực trung du, miền núi vào đầu mùa mưa.
    Rau tàu bay
    Rau tàu bay
    Rau tàu bay có thân thảo mập, có rãnh mọc đứng, cao khoảng 0,4 -1 m. Có rễ cái màu trắng hoặc nâu. Lá to, mỏng, hình trứng dài, mép có răng cưa to hoặc có khía, có mùi thơm. Hoa lưỡng tính, tự hình đầu, hợp thành ngù, màu hồng nhạt đến đỏ và đỏ nâu, có mào lông mịn, trắng, mềm. Quả bé có mào lông trắng xù ra sẽ được gió tung bay khắp nơi nên có tên là rau “tàu bay”.
    Rau tàu bay thường dùng để ăn sống, muối dưa, luộc, xào, nấu canh… Tuy nhiên, khi nấu canh rau tàu bay nên lắng bỏ phần dầu trên bề mặt để loại bỏ bớt mùi hôi hôi rất đặc trưng của rau tàu bay, rồi mới cho gia vị vào, thì sẽ thơm ngon.
    Có người khoái mùi vị đặc trưng của rau tàu bay. Nhưng có ý kiến cho rằng ăn nhiều và thường xuyên rau tàu bay sẽ bị thiếu máu. Để khắc phục tình trạng đó thì cần làm toan hóa rau tàu bay bằng cách phối hợp chấm nước mắm chanh hoặc làm rau trộn có chanh hoặc giấm để tăng hấp thu sắt tạo huyết sắc tố. Cũng có ý kiến dùng kéo dài rau tàu bay có thể bị sỏi thận. Do đó nên ăn thay đổi những món rau rừng khác. Tuy nhiên, những ý kiến này chưa được khoa học kiểm chứng.
     Theo y học dân gian, rau tàu bay có vị đắng, mùi thơm, tính bình, có tác dụng thanh can hỏa, giải độc, se da, tiêu viêm, tán uất, tiêu hòn cục, cầm máu, sát trùng. Thường dùng cả cây phơi khô làm thuốc trị cảm sốt, hạ nhiệt, kích thích tiêu hóa và lợi tiểu. Dịch lá trừ giun, thu liễm, giã đắp trị mụn nhọt.
    - Rau tàu bay cung cấp các loại vitamin nói chung và vitamin A, C là những vitamin chống ôxy hóa, khử gốc tự do.
    - Rau tàu bay có nhiều xơ gây nhuận tràng và giảm hấp thu chất béo, làm thức ăn kiêng cho người béo phì.
    - Một số vùng dân cư người ta quen dùng rau tàu bay phòng chống côn trùng, rắn rết cắn, bằng cách giã nhuyễn xoa đắp lên chỗ bị tổn thương.
  16. Hoa đủ đủ đực
    Hoa đu đủ đực thường được bán kèm quả cà rừng để làm nộm. Bạn có thể dễ dàng tìm mua được loại hoa này trong các phiên chợ của người Thái ở vùng Tây Bắc.
     Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 4Hoa đu đủ đực
    Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 5Món hoa đu đủ đực xào này ăn rất tốn... rượu
    Cây vón vén
    Loại cây này thường được các mế (mẹ) gọi vui là cây vén váy. Lá cây vón vén có vị chua chua, thường được dùng để nấu canh chua. Đặc biệt là dùng để nấu với cá hoặc ninh xương thì ngon chưa từng thấy.
    Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 6Lá cây vón vén không thể thiếu trong nồi canh chua của người Thái 
    Măng rừng
    Măng vầu, măng nứa, măng mai, măng trúc, măng sặt, măng nứa, măng lay… có thứ thì ngọt, thứ thì đắng, thứ màu trắng, thứ lại hơi vàng, thứ lại tim tím…
    Tất tần tật các loại măng này đều có thể luộc, xào, nấu canh, làm măng ớt, măng chua hoặc phơi khô để ăn dần. Đặc biệt món măng nướng chấm chẳm chéo đã trở thành thứ đặc sản không phải ai cũng có may mắn thưởng thức.
    Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 7Măng có nhiều ở tây bắc khi mùa mưa bắt đầu, cũng là lúc hoa ban nở rộ 
    Hoa ban
    Hoa ban thường được nấu canh cùng măng đắng như khẳng định thêm về mối tình khăng khít giữa chàng Kho và nàng Han trong truyền thuyết của người Thái. Quả non của cây hoa ban cũng thường được dùng xào hoặc nấu xôi, tạo vị chát chát, bùi bùi, ngọt ngọt rất ngon.
     Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 8Canh hoa ban nấu với rau cải, măng đắng và một vài loại rau khác
    Cây móc, cây song mây
    Hai loại cây này hơi khó kiếm. Những quả non của cây móc, cây song mây thường được dùng để nấu cháo, nấu canh, ngăn ngắt đắng, nhưng sau lại có vị ngọt rất sâu.
     Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 9Quả cây móc
    Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 10Quả cây song mây
    Những món rau rừng tuyệt ngon của người Thái 11Món cháo bổ dưỡng này nấu từ thịt chuột rừng, ngọn cây móc
    Tất cả những loại rau rừng, rau dại của người Thái kể trên đều sạch, bởi chúng mọc tự nhiên trong rừng hay ven suối chảy qua các làng bản. Hy vọng, khi đến Tây Bắc bạn có dịp thưởng thức những món rau rừng tuyệt ngon này!
  17. 1
  18. 1
  19. 1